Tìm hiểu sự NGẤT NGƯỞNG
Trong “ Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ
Vũ Nho
Người Việt thì ai cũng biết “ngất ngưởng” nghĩa là gì. Ngất
ngưởng theo từ điển định nghĩa rất ngắn gọn “1Ở thế không vững, lắc lư nghiêng
ngả như chực ngã. Say rượu đi ngất ngưởng. 2 Như ngất nghểu”. Ngất nghểu được
giải thích là : “Cao và gây cảm giác không vững, dễ đổ” ( Từ điển tiếng Việt - Viện khoa học xã hội
Việt Nam, Viện ngôn ngữ học, trung tâm từ điển ngôn ngữ, 1992, trang 669). Đó là
nghĩa trong từ điển. Còn với cụ Nguyễn Công Trứ, “ngất ngưởng” ở trong bài đồng
nghĩa với sự ngông, sự phóng túng và sự ngạo nghễ. Người ngất ngưởng phải là
người có tài ( Trời đất cho ta một cái
tài/ Giắt lưng dành để tháng ngày chơi
- Cầm kì thi tửu). Tài, nhưng chưa đủ,
phải ý thức được cái tài và tự hào, thậm chí kiêu ngạo về cái tài đó, dám đem cái
tài đó mà thi thố với đời chứ không giấu tài vì sợ ganh ghét. Ngất ngưởng là một
nét cá tính độc đáo, riêng biệt làm cho Nguyễn Công Trứ khác với các nhà nho tài
tử khác trước và sau cụ.
Trong “Bài ca ngất ngưởng” cụ nhắc đến
những cái mốc ngất ngưởng:
-
“Vào lồng”
“Nên
tay ngất ngưởng” trong trường đời.
-
“ Năm từ
giã kinh thành về hưu – “đô môn giải tổ
chi niên. Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”.
-
Những ngày tháng nhàn du – “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.
-
Tổng kết một đời người – “Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”
Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu tác
giả bài hát nói nổi tiếng đã cảm nhận và trình bày sự ngất ngưởng của mình như thế nào.
Vũ Nho - Chủ trang
Trước hết, con người ngất ngưởng được
bộc lộ là một con người “khổng lồ”. Một con người nhận trách nhiệm, nhận các công
việc to lớn trong vũ trụ. Việc gì trong trời đất cũng là việc của con người đó.
Và có lẽ đây là lần đầu tiên, một tác giả tự tách ra và gọi mình ( hoặc tự xưng)
với đại từ ÔNG rất trịnh trọng, đường bệ:
Ông
Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Cõi nhân gian cũng nhỏ bé như một
cái lồng con mà ông Hi Văn tài trí, tài
giỏi đã bước vào. Đây không thể hiểu “vào
lồng” là con người “ ngất ngưởng” lại “ mắc vào vòng trói buộc của quan trường”
như có người đã giảng. (1). Vào lồng là sự xuất hiện của con người tài trí
trong vũ trụ nhỏ bé. Và con người ấy đã
chứng tỏ tài năng xuất chúng của mình qua những cái mốc quan trọng. Không chỉ
giỏi văn chương ( Thủ khoa), giỏi dẹp loạn ( Tham tán), giỏi quản trị ( Tổng đốc),
giỏi quân sự ( Gồm thao lược). Địa vị nào,
cụ cũng ở vị trí cao:
Khi
thủ khoa, khi Tham tán, Khi Tổng đốc Đông
Gồm
thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Tác giả kể thêm hai sự kiện nữa để
chứng tỏ cái tài đáng tự hào ấy là:
Lúc
bình Tây cờ đại tướng
Có
khi về Phủ doãn Thừa Thiên
Phủ doãn Thừa Thiên là quan đầu tỉnh
trong đó có kinh đô Huế. Phải là một nhân vật quan trọng, tài năng mới được
giao chức vụ này.
Sự
kiện quan trọng đánh dấu tính chất ngất ngưởng của ông Hi Văn ấy là năm được
vua cho nghỉ hưu, ông cưỡi bò rời kinh đô:
Đô
môn giải tổ chi niên
Đạc
ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Như vậy giai thoại về Nguyễn Công
Trứ là câu chuyện có thật. Chính cụ xác nhận giai thoại này bằng hai câu trên trong bài hát nói. Đem đạc ngựa đeo cho bò vàng. Rồi lại cưỡi bò
chứ không dùng ngựa hay xe, hoặc kiệu. Đó chẳng phải là một cách hành xử khác đời,
ngất ngưởng hay sao?
Về
hưu, cụ thăm thú cảnh đẹp quê hương. Bỏ
cung kiếm của người tướng, mang dáng dấp nhà tu hành. Nhưng không theo nghiệp
tu hành của nhà sư. Tuổi cao, nhưng vẫn có các “em ún” cùng đi. ( Ta không khỏi
nhớ đến giai thoại cụ trả lời một em trẻ : “Tân nhân tá vấn lang niên kỉ/ Ngũ
thập niên tiền nhị thập tam” - Người mới hỏi chàng bao nhiêu/ Năm mươi năm trước
(ta) hai mươi ba”!). Đến mức “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.
Đến
đây, tác giả bài hát nói mới hé lộ vì sao mình luôn luôn “ngất ngưởng” như vậy.
Được
mất dương dương người thái thượng
Khen
chê phơi phới ngọn đông phong
Khi viết sách giáo khoa thí điểm
THPT, các tác giả chọn văn bản có câu:
Được
mất dương dương người tái thượng
Rồi chú thích bằng điển tích
Trung Hoa “ tái ông thất mã”. Nhưng ông lão bên Tàu mất ngựa chỉ “bình thản” thôi,
không buồn, cũng không vui, chứ không có
thái độ “dương dương” ( nhơn nhơn tự đắc). Bởi thế mà trong bản in sách giáo
khoa Ngữ văn lớp 11 ( cả bộ thường và bộ nâng cao) đều sửa thành:
Được
mất dương dương người thái thượng.
Điều ngạc nhiên nhất là không hiểu
sao, soạn giả của cả 2 bộ sách đều chung một cách giải thích trong chú thích khá
kì lạ:
“
Coi khinh mọi chuyện được mất trong cuộc đời ( dương dương : nhơn nhơn tự đắc), như người thái thượng ( người của thời rất xưa). Có bản chép là Được mất dương dương người tái thượng,
nhắc lại tích ông lão ở gần cửa ải, mất ngựa không lấy làm buồn, được ngựa không
lấy làm vui”, (2)
Người của thời rất xưa là thời nào? Tại sao người của thời ấy lại dương dương trước sự được mất?
Chúng
tôi cho rằng đây là một chú thích ẩu. Ai cũng biết chữ “thái” trong tiếng Việt
chỉ mức độ “rất” trong một số từ: thái cổ, thái quá, thái thượng hoàng, thái thượng lão quân…”. Thái thượng hoàng
là vua đã nhường ngôi cho con và còn sống. Nghĩa là ông hoàng ở vị trí rất cao.
Thượng có nghĩa là cao. Thái thượng có nghĩa là rất cao. Người thái thượng là
người rất cao. Tại sao Nguyễn Công Trứ chỉ nhận là thái thượng mà không phải là tối
thượng? Chúng tôi cho rằng dù có “ngất ngưởng” đến mấy chăng nữa, tác giả vẫn
nhớ trên đầu mình còn có một ông VUA. Ông ấy mới là người TỐI THƯỢNG ( cao nhất).
( Vế đối trong giai thoại về Nguyễn
Công Trứ : Không quân thần, phụ tử đếch
ra người cho thấy cụ rất tôn trọng quan hệ vua tôi - quân thần, và cả trong
bài này, cụ cũng nói đến nghĩa vua tôi).
Người thái thượng là người dưới một người trên muôn người. Tự xưng như thế phải
có một vị thế và lòng tự tin mạnh mẽ. Cuộc đời Nguyễn Công Trứ cho phép cụ xưng
như vậy. Một người ở vị trí như thế thì
những lời “khen chê” không thể ảnh hưởng, chỉ được xem như gió thoảng bên tai. Con người đã bỏ lại mọi chức tước bây giờ ung
dung tự tại theo đời sống phóng khoáng: Khi ca ngâm, khi uống rượu, khi hát ca trù ( sáng
tác thơ cho ca nương hát) còn tự mình cầm chầu. Không phải Phật, cũng chẳng phải
Tiên, không vướng víu những tục lụy trần gian.
Chẳng
Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn Phú
Nghĩa
vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Ở đây Nguyễn Công Trứ đã tự ví mình
ngang với các danh tướng Trung Hoa có sự nghiệp lừng lẫy. Và dù có thăng trầm
trong cuộc đời, cụ vẫn tự hào là đã “vẹn đạo sơ chung” với vua.
Trong
triều ai ngất ngưởng như ông!
(đại từ ÔNG được xướng lên lần thứ 3 đầy cá tính và kiêu hãnh!).
Đây là một câu có ý hỏi, nhưng cũng
là câu khẳng định : cả một triều
đình “không ai” ngất ngưởng như ông! Nói
như ngôn ngữ tự xưng của Hi mã lạp sơn trong thơ Xuân Diệu sau này thì ông “là
một, là riêng, là thứ nhất”! Quả thật đúng như sự tự khẳng định của tác giả,
trước và sau ông, trong Lịch sử Việt Nam, không một ai ngất ngưởng như Nguyễn Công
Trứ!
Hà Nội, 2
tháng 12 năm 2017
----
1. Ngữ
văn 11 nâng cao, nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2008, trang 77.
2. Ngữ văn 11 nâng cao, đã dẫn, trang 78.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét