TỨ THƠ VÀ HƯỚNG TIẾP CẬN MỚI
Túi nhà thơ có ba ngăn
Tứ - Từ - Tư (1) đủ quanh năm tiêu xài
NVT
Nguyễn Vũ Tiềm
1. TỨ THƠ VÀ NỘI HÀM CỦA KHÁM PHÁ
Tôi từng nghe nhiều nhà thơ nói về tứ thơ, có thể tóm tắt:
-Tứ thơ là xương sống của bài thơ.
-Tứ thơ là trụ cột của ngôi nhà thơ.
-Tứ thơ là nhân ở trung tâm bài thơ, chi phối ra toàn bài (2).
-Tứ thơ là cách liên kết, cấu trúc của các ý thơ nhằm tập trung thể hiện có hiệu quả nhất chủ đề trữ tình. (3)
Nói chung những khái niệm ấy cũng đã tiếp cận phần nào về tứ thơ. Nhưng dường như điều bí mật của tứ thơ vẫn chưa được hé mở? Không những thế nó dễ bị hiểu lầm đồng nhất với “đại ý” của bài, kiểu học sinh phổ thông trả bài cho thầy giáo và tai hại hơn là hiểu xương sống và cột nhà có thể giống nhau, trong lĩnh vực sáng tạo, sự giống nhau là tối kỵ. Những tiếp cận như thế mới chỉ là những thao tác thông thường đơn thuần hình thức mà thôi, dễ dẫn đến tình trạng thơ chạy theo số lượng, viết vội vàng có vẻ như đang khá phổ biến hiện nay.
Tình cờ tôi đọc ở đâu đó một câu trích: “Tứ thơ là một khám phá”. Rất cô đọng và chính xác. Đây mới thực sự đi vào đặc trưng của lao động sáng tạo trong thế giới tinh thần có nhiều ảo diệu mơ hồ là thơ. Nhưng rất tiếc dường như khái niệm này chưa được triển khai cho ra nhẽ nên nhiều bạn vẫn quan niệm tứ thơ giản đơn như bốn gạch đầu dòng trên kia.
Xin nêu một số ví dụ về tứ thơ mang khái niệm khám phá:
BẼN LẼN
HÀN MẶC TỬ
Trăng nằm sóng soải trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi.
Trong khóm vi vu rào rạt mãi
Tiếng lòng ai nói? Sao im đi?
Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.
Vô tình để gió hôn lên má
Bẽn lẽn làm sao lúc nửa đêm
Em sợ lang quân em biết được
Nghi ngờ đến cái tiết trinh em.
Đã có nhiều người bình bài thơ này, ai cũng cho mỗi chữ mỗi câu đều lung linh kỳ ảo, vừa trần thế, vừa thần tiên. Từ câu đầu đến câu cuối, câu nào cũng khác thường khiến ta bất ngờ. Tương tự, bài Nguyệt cầm của Xuân Diệu (trích khổ cuối):
Bốn bề ánh nhạc biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc tới sao Khuê.
Câu nào cũng mới lạ khác thường mang đến cho người đọc hết bất ngờ này đến bất ngờ khác.
THÁP BAY ON
CHẾ LAN VIÊN
Anh là tháp Bayon bốn mặt,
Giấu đi ba, còn lại đấy là anh,
Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười khóc,
Làm đau ba mặt kia trong cõi vô hình.
Nhà thơ mượn hình tượng tháp Bayon để nói thế thái nhân tình. Tháp có nhiều mặt, mặt phô ra, mặt giấu đi; cuộc đời, con người cũng vậy. Hai câu trên so sánh để tạo tình huống đặc biệt khác thường, hai câu dưới, từ tháp cổ im lặng nhiều thế kỷ bỗng đột biến khai ngộ bừng thức thành “nghìn trò cười khóc”, mặt này làm đau mặt kia là thể hiện các mối quan hệ xã hội phức tạp, nỗi niềm đau đáu thẳm sâu của người nghệ sĩ.
Thơ Đường cách ta trên nghìn năm, xa hàng vạn cây số vậy mà có bài thơ vượt không gian, thời gian cho đến nay vẫn không cũ mà còn thời sự nữa.
LẠC ĐỆ
ĐƯỜNG THANH THẦN
Lạc đệ viễn quy lai
Thê tử sắc bất hỉ
Hoàng khuyển diệc hữu tình
Đương môn ngọa dao vĩ.
THI HỎNG
Thi hỏng, từ xa về
Vợ con đều rầu rĩ
Chó vàng lại có tình
Vẫy đuôi mừng từ cửa.
(NVT dịch)
Sĩ tử hỏng thi, vất vả mưa nắng vượt hàng ngàn dặm trở về. Lẽ ra thấy chồng, cha về thì cả nhà mừng vui chứ, sao lại ủ ê để người đi xa về thêm tủi hổ? May mà có con chó vàng có tình, vẫy đuôi đón chào từ cửa. Hai câu sau tạo nên sự bất ngờ thú vị gợi cho người đọc suy nghĩ về lẽ đời, tình người, tình của con vật.
CHỢT NHỚ
TRẦN NINH HỒ
Chợt nhớ một thời thơ
Chưa kịp viết đã cũ
Chợt nhớ những chồng vợ
Không một ngày tình nhân.
Thơ tiêu biểu cho khát vọng tinh khôi mới mẻ, vậy mà “chưa kịp viết đã cũ” thì buồn quá, cũng như một cuộc đời chồng vợ mà không một chút ngọt ngào e ấp tình nhân thì tẻ nhạt biết chừng nào. Những điều ấy quả là khác thường và làm ta bất ngờ nhận ra hình như mình cũng có phần can dự… Và ta bỗng tỉnh thức được điều gì đó sâu kín từ bài thơ ngắn.
Cái đáng quý của tứ thơ là vậy nên có vẻ như thơ chả thiết thực gì với đời sống chạy đua ngày càng gấp gáp nhưng nó vẫn âm ỉ cháy trong tâm tưởng của nhiều người. Thơ - với thiên chức khám phá vùng sâu kín của tâm hồn - không bao giờ lịm tắt hay “tiệt chủng” như một số người lo ngại bởi lý do ấy.
Qua những ví dụ trên ta thấy tứ thơ mang nội hàm khám phá (discovery) chủ yếu ở ba yếu tố chính: Khác thường – Đột biến – Bất ngờ.
Một bài thơ gọi là có tứ, phải ít nhất có một trong ba yếu tố ấy, hay nói cách khác không có khám phá thì không thành tứ và không thành thơ, chỉ là ca vè giống như thơ mà thôi. Nhiều bài có xương sống, có cột nhà, có hạt nhân, có sự liên kết các ý thơ, có tập trung…” nhưng vẫn không có tứ bởi không có khám phá gì cả, do quan niệm không đúng về tứ thơ. Nội hàm của khám phá còn mang ý nghĩa: từ một sự vật (đối tượng thẩm mỹ) nhà thơ phải cảm nhận được và viết ra những điều mà người khác không thấy, ở đó cái đẹp và sự thật ngời lên một giá trị mới lung linh đa chiều chưa từng có. Chỉ như thế, sản phẩm của anh ta mới là thứ mà mọi người cần để thưởng thức và trải nghiệm; và chỉ có như thế nhà thơ mới thực thi được thiên chức phản biện, dự báo, thức tỉnh, tránh cho thơ chỉ quanh quẩn ba cái chuyện “buôn dưa lê” hoặc xác quyết mấy thứ vụn vặt tầm thường.
Thơ Việt nhiều năm nay chừng mực, thật thà quá, nhiều “khôn ngoan”, “điệu đàng” mà ít tìm tòi khám phá, có lẽ đây là lý do làm cho thi đàn rơi vào khủng hoảng: người làm thơ nhiều hơn người đọc thơ, người in thơ nhiều hơn người mua thơ!
Từ một ý tưởng được khám phá, nhà thơ cấu trúc (gestalt) thành tứ thơ gọi là cấu tứ.
2. CÁC HÌNH THỨC CẤU TỨ:
Tìm hiểu nghệ thuật thơ, tôi thấy có 4 hình thức cấu tứ phổ biến.
Một. Cấu tứ chủ đề
NHÀ THƠ VÀ KẺ TRỘM
TRẦN NHUẬN MINH
Nhà thơ ngủ thường mở toang các cửa
Buộc lỏng bốn dải màn vào bốn chùm sao
Ông không biết đêm đêm những tên đầu trộm
Qua cửa nhà ông đều lặng đứng cúi chào...
Hiện thực và siêu thực, đời thường và suy tưởng, rất tập trung và ấn tượng. Bài này và các bài thơ dùng làm dẫn chứng ở phần 1, mỗi bài đều có một chủ đề nhất quán. Cấu tứ chủ đề có ưu thế đặc biệt là dễ khắc họa hình tượng thơ, dễ tạo ấn tượng và ám ảnh. Thơ Việt truyền thống hầu hết là cấu tứ chủ đề. Các nhà thơ Huy Cận, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Duy, Nguyễn Đức Mậu, Phạm Sĩ Sáu, Trương Nam Hương, Phùng Văn Khai… rất sở trường về cấu tứ chủ đề, mỗi người từng ghi dấu ấn vào thi đàn bằng nhiều tác phẩm đặc sắc.
Hai. Cấu tứ cảm đề
Cấu tứ loại này thiên về cảm tính hơn là lý tính mang nhiều dấu ấn của dư chấn tâm thức. Trong thơ đổi mới và cách tân, nhiều nhà thơ đã thể nghiệm loại cấu tứ này.
Một nhà thơ rất sở trường cấu tứ chủ đề nhưng đôi khi anh cũng thử nghiệm cấu tứ cảm đề:
CUỐI NĂM
HỮU THỈNH
Gió sao là lạ. Mây khang khác
Không hiểu. Hay là nhịp cuối năm
Hôm qua thì tiếc. Mai thì sợ
Tuột cương. Trăng cũ lại sang rằm.
Hữu Thỉnh không dụng công vào hình ảnh, hình tượng mà để tâm trạng giãi bày tự nhiên. Với chất liệu như vậy, nếu bản lĩnh yếu, tay nghề không vững, bài thơ rất dễ bị nhạt. Như một nghệ sĩ xiếc, Hữu Thỉnh đi trên sợi dây thơ buộc hờ chông chênh, vượt qua sự hồi hộp lo âu của khán giả, anh đã đến đích một cách hoàn hảo. Ta hiểu đó là phút giây tâm thức bừng nở, cộng hưởng cùng vô thức. Bài thơ để lại những dư chấn cảm giác bềnh bồng và lắng sâu.
NHẬT KÝ
LÃNG THANH
Len theo các đường cong chậm rãi, sự lãng quên trườn lên thang gác trọ,
như những bông hoa tím nhỏ...
(Vai nàng ấm từng giọt mồ hôi, đôi mắt nàng trong như mới khóc)
Nuông chiều tình yêu như đang nâng niu chiếc bình gốm cổ: đẹp và lười biếng.
Lũ lộc vừng nằm khoanh dưới bầu trời no bụng.
Vậy còn hơi thở nào buốt giá, tim óc lạnh như thép?
Em ngắt khỏi cây bông hoa đẹp nhất,
Đó cũng là cách em tin vào tình yêu của anh…
Mỗi dòng thơ như những mảnh vỡ của cuộc đời được đặt một cách tình cờ, có vẻ như chả ăn nhập gì với nhau. Đó là một trạng thái tâm hồn trước ngưỡng cửa cuộc đời và tình yêu đang có nhiều lo âu bất ổn chăng? Hay cuộc sống vận động với tốc độ ngày càng vội vàng, lắm chông chênh, ngổn ngang nghịch lý? Nhiều giá trị bị thay đổi chưa lý giải được chăng?
Nhà thơ Trần Thị Huyền Trang trong bài thơ tôi không nhớ tên, có đoạn:
Tay nhẹ đan vào mây trắng
vui buồn đời sấy lên môi
bỗng sợ gõ vào khung cửa
chỉ còn tịch mịch rơi… rơi.
Những câu thơ về nỗi buồn, nỗi cô đơn đẹp một cách trong trẻo trầm huyền. Hữu Thỉnh, Lãng Thanh, Trần Thị Huyền Trang đều dành những khoảng trống mỹ cảm để người đọc tự liên tưởng. Kết cấu bài thơ tuy có vẻ rời rạc nhưng vẫn có sự gắn kết bằng một nguồn mạch ẩn kín. Những bài thơ trên thuộc loại thơ không liền mạch (khác với thơ truyền thống hầu hết là liền mạch, những bài thơ, ca làm ví dụ ở phần 1 cũng vậy). Loại thơ có cấu tứ cảm đề này nếu phải tìm chủ đề và tứ thơ thì không dễ chút nào và dễ gây tranh cãi bởi không phải chỉ có một cách hiểu mà nhiều cách hiểu, ấy là chưa kể nhiều trường hợp khó hiểu. Kết thúc bài thơ thường là mở ra chứ không đóng vào.
Nhiều nhà thơ đoạt giải Nobel danh giá cũng từng sử dụng cấu tứ cảm đề như Rabindranath Tagore, Joseph Brodsky, Octavio Paz, Wislawa Szymborska… Nhưng số lượng những bài thơ cấu tứ chủ đề của họ vẫn chiếm nhiều hơn một cách áp đảo. Nhà thơ Thụy Điển Tomas Transtromer Nobel 2011 thì hầu như không sử dụng cấu tứ cảm đề mà toàn là cấu tứ chủ đề.
Vậy cấu tứ chủ đề và cấu tứ cảm đề, bên nào ưu thế hơn? Xin thưa: 50 – 50. Ca khúc Trịnh Công Sơn thuộc dòng nhạc ballade, thiếu vắng cao trào, hơi đều đều dàn trải nhưng đâu có thua kém gì dòng nhạc khác? Thiếu vắng cao trào nhưng giai điệu phải độc đáo, lắng sâu, ca từ phải thấm đẫm minh triết và say đắm lòng người. Tương tự như thế, cấu tứ cảm đề tưởng dễ mà khó, khó bởi mỗi câu, hay cặp câu phải là một chi tiết độc đáo, hoặc ý tưởng sâu sắc mới lạ, có khả năng đứng riêng biệt đủ để người ta dừng lại nghĩ suy, chiêm nghiệm. Bài thơ của Hữu Thỉnh trên đây chỉ nửa câu cũng đứng độc lập được: Hôm qua thì tiếc. Mai thì sợ/ Tuột cương. Trăng cũ lại sang rằm. Bài của Lãng Thanh cũng vậy: “sự lãng quên trườn lên thang gác trọ”, “đôi mắt nàng trong như mới khóc”. Trần Thị Huyền Trang: “vui buồn đời sấy lên môi”, “chỉ còn tịch mịch rơi… rơi”…
Cấu tứ cảm đề dễ tích hợp hằng số bí ẩn, dễ tạo nên những trầm tích tâm linh tiềm thức…
Gần đây các nhà thơ Hoàng Vũ Thuật, Lê Khánh Mai, Inrasara, Trương Đăng Dung, Nguyễn Bình Phương, Trần Hùng, Nguyễn Phong Việt… có nhiều bài thơ cấu tứ cảm đề đa sắc diện với những ánh chớp thi tài rất thú vị.
Ba. Cấu tứ định đề
TÔI Ở CÁCH XA TÔI
KARL LUBOMIRSKI
Tôi ở cách xa tôi
Xa đến nỗi, nếu em không đến đó
Không cuộc đời nào đến được với tôi đâu.
(Quang Chiến dịch)
Nhà thơ Karl Lubomirski hiện là Chủ tịch Hội Văn bút Công quốc Lichtenstein tạo nên tứ thơ độc đáo trong bài thơ ngắn. Cái lạ và “phi lý” ở câu thứ nhất tạo nên sự khác thường; câu thứ hai và ba đột biến và bất ngờ khiến người đọc phải dừng lại tìm hiểu. Bài thơ nêu một triết lý nhân sinh nhẹ nhàng, kín đáo “nếu không có em thì chính tôi cũng chẳng đến được với tôi, có khi tôi cũng “vô tích sự” chẳng ra gì”.
NẾU HÒN SỎI NÓI
BERTOLT BRECHT
Khi bạn tung hòn sỏi lên trời
Hòn sỏi nói: Tôi sẽ rơi về đất
Bạn tin hòn sỏi kia nói thật.
Nếu có ai ném bạn xuống nước
chắc chắn bạn sẽ bị ướt.
Nếu có cô gái viết thư và hẹn giờ đến gặp
Thì bạn chớ vội tin
Vì đó không phải là tất yếu của tự nhiên.
(Mai Lược dịch)
Nét đặc sắc ở bài này là sự phi lý khó tưởng tượng: Hòn sỏi tất nhiên không thể nói được, thế mà nhà thơ lại xui ta: “bạn tin hòn sỏi kia nói thật”. Còn cô bạn gái gần gũi viết thư hẹn, việc ấy trên cả mức tuyệt vời thì ông lại bảo: “chớ vội tin”. Cốt lõi bài thơ này ở câu cuối “Vì đó không phải là tất yếu của tự nhiên”.
Đặc điểm của cấu tứ định đề: từ một ý tưởng gần với triết học hoặc chính là triết học, nhà thơ khám phá, cấu tứ và xử lý tài tình trong lò “luyện đan thơ”.
Có thể nói con đường của cấu tứ định đề là đi từ “lý luận màu xám” đến “cây đời xanh tươi”. Tuy lộ trình ngược chiều với cấu tứ chủ đề nhưng đều chung một đích, đó là tác động vào cảm thức, lay động trái tim ta. Hai lộ trình bổ xung cho nhau làm cho thơ thêm chất trí tuệ bên cạnh thơ giàu cảm xúc.
Trong trào lưu đổi mới và cách tân, một số nhà thơ Việt Nam cũng thể nghiệm hình thức cấu tứ định đề như Mai Quỳnh Nam, Đặng Huy Giang… Nhiều bài thơ của các anh rất hàm súc và minh triết.
Bốn: Cấu tứ phản đề:
Xin nêu vài chi tiết về phản đề trong thơ:
“Nhà em xa cách quá chừng
Em van anh đấy, anh đừng yêu em”
Xa cách - Nguyễn Bính.
Trong trường hợp này ta phải hiểu ngược lại.
Hoặc câu thơ tương truyền của Cao Bá Quát:
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa (Một đời chỉ biết lạy hoa mai”.
Không ai thấy ông lạy hoa mai bao giờ nhưng hàng ngày gặp vua ông vẫn cúi đầu lạy. Không lạy (hoa mai) mà lạy (A), lạy (vua) mà không lạy (B). Nêu (A) để phủ định (B).
Hoặc bài
XIN CUỘC ĐỜI CAY ĐẮNG CỨ NHIỀU THÊM
ĐINH THỊ THU VÂN
“Xin cuộc đời cay đắng cứ nhiều thêm
Để em lọc hồn em dâng cây lá
dâng trời đất, dâng người thân người lạ
thanh khiết này huyết mạch dướng nuôi em”… (trích)
Trong trường hợp này thì ta phải hiểu là nhà thơ muốn nhận thật nhiều cay đắng về mình để cuộc đời mỗi ngày bớt đi nhiều cay đắng.
Phủ định điều này để khẳng định điều kia; hoặc tưởng như phủ định, nhưng thực ra là để khẳng định mạnh mẽ hơn là thế mạnh của cấu tứ phản đề.
Cấu tứ phản đề thường hiếm gặp, có lẽ loại cấu tứ này dễ gây hiểu lầm là “biểu tượng hai mặt” chăng. Nhưng văn chương thì đa nghĩa mới hay, tức là chấp nhận biểu tượng nhiều mặt. (Lịch sử thi ca thế giới, một số thi tài phô diễn độc chiêu này được vinh dự lên đoạn đầu đài không hiếm). Trên thực tế khá đông độc giả dường như chưa quen với lối cấu tứ này.
Cái hay của loại thơ cấu tứ định đề và phản đề là sự khám phá phát hiện khác thường, đột biến, bất ngờ từ một quang phổ của trí-tuệ lóe sáng. Thơ ấy đa phần tác động vào bộ-não-minh-tuệ trước tiên, rồi từ đó nó mới truyền đến trái-tim-đa-cảm.
Với bốn hình thức cấu tứ, sử dụng hình thức nào là tùy sở trường từng người và từ chỉnh thể thẩm mỹ ấy (nội dung hình thức bài thơ) quyết định.
__________
(1) Tứ thơ, từ ngữ, tư tưởng.
(2) Công việc làm thơ – Xuân Diệu, NXB Văn Học, 1984.
(3) Thơ và mấy vấn đề văn học – Phạm Quốc Ca, NXB Hội Nhà Văn 2016).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét