“SAY ĐI EM” – MỘT BÀI THƠ “TỚI BẾN”
Phạm Đức Nhì
Tôi không nhớ đã “quen biết” bài thơ Say Đi Em
của Vũ Hoàng Chương ở đâu và khi nào. Nhưng trong danh sách những bài thơ hay để
giới thiệu với độc giả thì nó đứng đầu. Đọc để cảm thì sao cũng được – đó là “cái
riêng” của mỗi người khi đọc thơ, những người khác ít ai dám xía vào. Nhưng bình
thơ thì phải có khen chê - phải có một quan niệm về thơ để làm chỗ dựa cho sự
khen chê đó. Mỗi lời khen, tiếng chê - ngoại trừ cái hay, dở của ngôn ngữ thơ -
đều phải có lập luận để giải thích, và nếu bị phản bác, để bảo vệ nó.
Say Đi Em là bài thơ khó bình. Tôi đã “ngâm” nó
trong kho từ vài năm trước. Mỗi lần mở ra đọc lại thấy ơn ớn. Chỗ mình muốn
khen hết lời thì lại có một cây đại thụ về phê bình văn học (Vũ Ngọc Phan) (1) dè
bỉu, chê bai. Một số điểm hay khác của bài thơ thì lại … quá lạ, không biết mình
nêu lên có gây sóng gió, bão táp gì không?
Nói vậy để độc giả thông cảm chứ tôi đã ăn ngủ
với Say Đi Em cả mấy tháng nay rồi. Đã thuộc, đã nghiền ngẫm từng chữ nên khi
viết lời bình cũng có đôi chút tự tin. Tuy nhiên, cái hay, cái đẹp (và cả cái dở)
của thơ thì mênh mông như biển cả. Nếu bài viết này có gì sai sót, rất vui vẻ đón
nhận mọi phê bình, góp ý.
SAY ĐI EM
1/
Khúc nhạc hồng êm ái
Điệu kèn biếc quay cuồng
Một trời phấn hương
Đôi người gió sương
Đầu xanh lận đận, cùng nhớ thương, càng xót thương...
Điệu kèn biếc quay cuồng
Một trời phấn hương
Đôi người gió sương
Đầu xanh lận đận, cùng nhớ thương, càng xót thương...
Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, tình
nay sao héo?
Hồn ngả lâu rồi nhưng chân còn dẻo
Lòng trót nghiêng mà bước vẫn du dương
Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ
Hồn ngả lâu rồi nhưng chân còn dẻo
Lòng trót nghiêng mà bước vẫn du dương
Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ
2/
Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn gửi cánh tay hờ
Âm ba gờn gợn nhỏ
Ánh sáng phai phai dần...
Bốn tường nghiêng điên đảo bóng giai nhân
Lui đôi vai, tiến đôi chân
Riết đôi tay, ngả đôi thân
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió
Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ
Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta
Cổ chưa khô đầu chưa nặng mắt chưa hoa
Tay mềm mại bước còn chưa chuếnh choáng
Chưa cuối xứ Mê Ly chưa cùng trời Phóng Đãng
Còn chưa say hồn khát vẫn thèm men
Ánh sáng phai phai dần...
Bốn tường nghiêng điên đảo bóng giai nhân
Lui đôi vai, tiến đôi chân
Riết đôi tay, ngả đôi thân
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió
Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ
Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta
Cổ chưa khô đầu chưa nặng mắt chưa hoa
Tay mềm mại bước còn chưa chuếnh choáng
Chưa cuối xứ Mê Ly chưa cùng trời Phóng Đãng
Còn chưa say hồn khát vẫn thèm men
3/
Say đi em! Say đi em!
Say cho lơi lả ánh đèn
Cho cung bậc ngả nghiêng, điên rồ xác thịt!
Rượu, rượu nữa! Và quên, quên hết!
Ta quá say rồi
Sắc ngả màu trôi...
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời
4/
Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!
(Vũ Hoàng Chương)
“Em”
Trong Bài Thơ Là Ai?
Theo tôi, câu hỏi đó đã được trả lời một cách
kín đáo ở đoạn đầu bài thơ.
Khúc
nhạc hồng êm ái
Điệu
kèn biếc quay cuồng
Một
trời phấn hương
Tác giả nói đến vũ trường, nhạc dập dìu quanh
các nàng ca ve son phấn.
Đôi
người gió sương
Đầu
xanh lận đận, cùng nhớ thương, càng xót thương
Hoa
xưa tươi, trăng xưa đẹp, gối xưa kề, tình nay sao héo?
Gặp người quen, cũng là dân “sương gió”; nàng
là gái nhảy, chàng là khách làng chơi mê khiêu vũ, xưa đã có một thời mặn nồng,
sau đó vì “đầu xanh lận đận” nên nay tình đã héo. Cụm từ “gối xưa kề” đã bóng
gió nói đến thời mặn nồng đó.
Hồn
ngả lâu rồi nhưng chân còn dẻo
Lòng trót nghiêng mà bước vẫn du dương
Lòng trót nghiêng mà bước vẫn du dương
Nay tình không còn mặn nồng nữa nhưng vẫn còn
khoái món khiêu vũ. Cụm từ “Lòng trót
nghiêng” hơi trừu tượng; vừa muốn giải thích lại vừa muốn đưa vào 2 câu lục
bát cho ngọt dòng thơ nên ông viết tiếp:
Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ
Lòng đã hết thương nhưng chân còn mê nhảy.
Tóm lại, đoạn đầu có thể hiểu như sau; Vào vũ trường nhảy nhót, uống rượu giải sầu, lại gặp bạn “giang hồ” cũ. Dù tình đã hết cũng xáp lại để có đôi có cặp, để được đối ẩm, khiêu vũ với người “hợp gu”, “hợp rơ”.
Thành
Sầu Của Vũ Hoàng Chương
Tập thơ Say của Vũ Hoàng Chương xuất bản năm 1940 – có nghĩa là
bài thơ Say Đi Em được viết trước đó.
Nho học đã lụi tàn. Khoa thi Hương cuối cùng là khoa Mậu Ngọ (1918), tổ chức tại trường
Thừa Thiên. Sau khoa thi Hương này, ngày 28/12/1918, vua Khải Định ra chỉ dụ
bãi bỏ khoa cử ở Việt Nam. Khoa thi Hội và thi Đình cuối cùng được tổ chức năm
1919. Những người thi đỗ có bằng nhưng không được bổ nhiệm chức vụ gì. (2)
Cha mẹ VHC, cũng như rất nhiều bậc cha mẹ thuộc hàng quan lại, khá
giả thời bấy giờ, ở vào thế tấn thối lưỡng nan. Một là, giữ lấy chút tiết tháo
kiểu quân tử Tàu, thà để con lông bông chịu dốt chứ không thèm hợp tác với ngoại
bang. Hai là, cho con theo Tây học để mở mang kiến thức, có cơ hội thăng tiến
trong xã hội mới. Họ, hầu hết, đã chọn con đường thứ hai. Vũ Hoàng Chương nhờ
thế, đỗ Tú Tài Pháp ban toán năm 21 tuổi (1937).
Năm 1938 ông vào Trường Luật nhưng chỉ được
một năm thì bỏ, đi làm Phó Kiểm Soát Sở Hỏa Xa Đông Dương, phụ trách đoạn
đường Vinh – Na Sầm (Wikipedia). (3)
“Vào năm 1935, Hà Nội tuy sống dưới chế độ bảo hộ của thực dân Pháp
nhưng có một bộ mặt rất thanh bình, vui vẻ, trẻ trung. Nhà cầm quyền đang cố
tình dung túng các cuộc ăn chơi phóng túng để người ta quên đi biến cố đàn áp
tàn bạo vừa qua (Năm 1930, Nguyễn Thái Học và mười hai liệt sĩ VN Quốc Dân
Đảng khác phải lên đoạn đầu đài ở Yên Bái, sau đó là chiến dịch lùng sục bắt bớ
ở nhiều nơi), đồng thời để ru ngủ thanh niên nên các trà đình, tửu điếm,
các tiệm nhẩy đầm, các nhà hát ả đào (còn gọi là hát cô đầu) và các tiệm hút
thuốc phiện mọc lên nhan nhản. Người ta đua nhau ăn diện, nhiều cậu công tử Hà
Thành diện đúng mốt Paris, tay sách can đi bên cạnh các cô gái tân thời, phấp
phới áo dài Lemur Nguyễn Cát Tường.
(4)
VHC ngoài việc bắt buộc phải theo Tây học để
tiến thân, còn cắn phải miếng mồi “ru ngủ” của người Pháp. Ông cũng lao vào những
thú vui trác táng - rượu, thuốc phiện, nhảy đầm và cả gái nữa. Về điểm này,
Trong Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã có một đoạn khá đầy đủ:
Người say đủ thứ: Say rượu, say đàn, say ca,
say tình đong đưa. Người lại còn "hơn" cổ nhân những thứ say mới nhập
cảng: Say thuốc phiện, say nhảy đầm. Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng một say
sưa to hơn mọi say sưa khác: Say thơ. (3)
Như vậy, “thành sầu” của VHC là nỗi sầu đất nước
bị ngoại bang đô hộ, dân tộc bị chúng làm tha hóa, băng hoại bằng đủ mọi âm mưu
thâm độc. Trớ trêu thay, chính ông lại góp tay, giúp sức cho bộ máy cai trị ấy,
chính ông lại lậm vào những cuộc chơi trác táng do chúng đặt ra, không những tự làm hỏng mình mà còn
làm gương xấu cho lớp trẻ, rường cột của tương lai dân tộc. Ông cảm thấy tội lỗi,
tủi nhục, uất ức và chất ngất buồn sầu. Là người có liêm sỉ, ông đã can đảm nói
lên sự thật:
Lũ
chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị
quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh
Bể
vô tận xá gì phương hướng nữa
Thuyền
ơi thuyền, theo gió hãy lênh đênh.
(Phương
Xa)
Và thế là năm 1941, ông bỏ Sở Hỏa Xa đi học
Cử nhân toán tại Hà Nội, rồi lại bỏ dở để đi dạy (tư) ở Hải
Phòng (3).
Nỗi tủi nhục buồn sầu đó bắt rễ, ăn sâu rồi
cao lớn như một bức tường thành sừng sững trong tâm hồn nhà thơ – đã trở thành điểm
mấu chốt trong tứ thơ của thi phẩm Say Đi Em.
“Thành
Sầu” Trong “Say Đi Em” Của Vũ Hoàng Chương Có Nỗi “Sầu Tình” Không?
Cha VHC là Vũ Thiện Thuật, một nhà nho bảo thủ,
nghiêm khắc, làm Tri Huyện, muốn sau khi VHC học xong sẽ hỏi con gái một quan Bố
Chánh, bạn thân của mình, cho ông. Ông không thích kiểu hôn nhân áp đặt nên không
đồng ý và đã làm phật lòng cha. Vì thế khi ông yêu cầu đi hỏi Tố Uyển - người yêu
của mình - về làm dâu trong gia đình thì cha ông đã từ chối thẳng thừng. (4)
Khoảng tháng 3 năm 1941 song thân của Tố Uyển mới
nhận lễ vật dạm ngõ của nhà trai (anh Cử Cương) (4) và mãi đến ngày 12 tháng 6
năm Tân Tỵ (khoảng tháng 7 năm 1941) nàng mới lên xe hoa về nhà chồng. (6) Sau đây
là một đoạn trong bài Mười Hai Tháng Sáu ông viết về mối tình tan vỡ của mình:
Tháng Sáu mười hai, từ đấy nhé
Chung đôi, từ đấy nhé lìa đôi.
Em xa lạ quá đâu còn phải
Tố của Hoàng xưa, Tố của Tôi.
Chung đôi, từ đấy nhé lìa đôi.
Em xa lạ quá đâu còn phải
Tố của Hoàng xưa, Tố của Tôi.
Nỗi sầu thất tình của VHC xuất hiện sau năm tập
thơ Say ra đời (1940) nên có thể nói chắc rằng nó không ăn nhập gì đến “thành sầu” của thi sĩ trong bài thơ
Say Đi Em.
Tứ
Thơ
Trong một đêm đi nhảy ở vũ trường, gặp “bạn nhảy
cũ”, tác giả mời nàng đối ẩm, có ý muốn mượn rượu để giải sầu, nhưng uống đến mức
“say không còn biết chi đời” mà nỗi sầu
vẫn sừng sững như một bức tường thành, không sụp đổ.
Bố
Cục Và Dàn Ý
Bài thơ có thể chia làm 4 đoạn:
1/ Đoạn mở đầu 10 câu, thiết lập khung cảnh của
bài thơ: Đến vũ trường, gặp người tình cũ đang là ca ve ở đấy. Tình đã héo nhưng
chân còn “ngứa ngáy” nên xáp lại.
2/ Đoạn hai 16 câu: Cảm giác “Đê mê hồn gửi cánh tay hờ” khi đang dìu
em trên sàn nhảy lúc rượu đã ngà ngà.
3/ Đoạn ba 13 câu: Mời em cùng uống cho đến khi
“say không còn biết chi đời”.
4/ Đoạn kết 5 câu: Nỗi sầu vẫn còn đó - sừng sững
như một bức tường thành, không sụp đổ.
Vũ Hoàng Chương viết Say Đi Em không theo lối
kể chuyện lớp lang theo trình tự thời gian. Trong một lúc tĩnh lặng nào đó, ông
hồi tưởng rồi trải lên trang giấy những hình ảnh, cảm giác, tâm trạng lưu lại
trong ông ấn tượng mạnh mẽ nhất, sâu đậm nhất của một đêm đi nhảy, uống rượu ở
vũ trường.
Vì thế, ở đoạn 2, có lẽ ông nói đến điệu nhảy
sau cùng, nhịp điệu nhanh, tâm trạng phấn khích, hào hứng, có người còn liên tưởng
đến những bước “fantaisie” của vũ điệu Tango (cũng điệu Tango 4 phách, chế ra
những bước nhảy mới lạ - gọi tắt là nhảy “phăng”). Trước khi vào đoạn 3 ông đã mấp mé ở ranh giới
giữa “ngà ngà” và thật say. Cho nên nâng ly mời cô bạn nhảy “Say đi em! Say đi em!” thì chắc chỉ được
vài ly là ông đã “Say không còn biết chi
đời”.
Nhưng dù say đến thế nhưng nỗi sầu quá sâu đậm,
vẫn như một bức tường thành, không sụp đổ.
Vần
Và Dòng Chảy Của Tứ Thơ
Về hình thức, tác giả sử dụng thể Thơ Mới, nhưng
không phải lối thơ Trường Thiên (mỗi đoạn 4 câu) mà là thể thơ nhất khí liền mạch
– một hơi từ câu đầu đến câu cuối. Nhưng cũng không phải như Nhớ Rừng của Thế Lữ
- cứ 8 chữ một câu với vần liên tiếp, đọc lên nghe rất ngán. “Say Đi Em” rất phóng
khoáng. Có đôi chỗ ngừng là do tác giả muốn chuyển ý, đổi vần chứ không phải do
đòi hỏi của luật thơ. Ông cũng tạo ra một số thay đổi, vừa tránh được trói buộc
của luật tắc, vừa có thể nhấn mạnh điểm chính của tứ thơ:
1/ Số câu trong bài không giới hạn, viết hết ý,
hết hứng thì thôi.
2/ Số chữ trong câu thay đổi (với biên độ rộng)
một cách tùy tiện, tùy hứng. Câu ngắn nhất 3 chữ (Chân rã rời), câu dài nhất 13 chữ (Hoa xưa tươi, trăng xưa đẹp, gối xưa kề, tình nay sao héo). Nhờ thế,
nhịp điệu thơ thay đổi liên tục.
3/ Vần rất đậm, nhưng không có hội chứng nhàm
chán vần, đọc lên không thấy ngán. Câu sau nối tiếp câu trước, tứ thơ và cảm xúc
cứ thế tuôn chảy thành dòng. Lý do: Nhịp điệu thay đổi cộng với sự giúp sức của
mấy đoạn gieo vần gián cách:
Ánh
đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê
mê hồn gửi cánh tay hờ
Và:
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời
Thêm vào đó, để thay đổi không khí, còn có hai
câu thơ lục bát mượt mà ở đoạn đầu và sự phối hợp một cách tài tình điệp ngữ, điệp
vận với vần ôm ở đoạn kết.
Ở thời điểm trước năm 1940 mà đã sử dụng vần
phóng khoáng và điệu nghệ như vậy thì thật đáng nể phục.
Cũng xin nói đến một điểm nổi bật về kỹ thuật
thơ của VHC là sự chuyển đoạn ăn khớp, khéo léo - từ ý này bước qua ý khác rất
ngọt.
a/ Đoạn
1 qua đoạn 2
Từ:
Lòng
nghiêng tràn hết yêu thương
Bước
chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ.
qua:
Ánh
đèn tha thướt
Lưng
mềm não nuột dáng tơ
Hàng
chân lả lướt
Đê
mê hồn gửi cánh tay hờ.
Vừa nói “hết yêu nhưng còn mê nhảy” đã chuyển
qua cảnh ôm em trên sàn nhảy. Sự kết nối thật tương hợp.
b/ Đoạn
2 qua đoạn 3
Từ:
Còn
chưa say, hồn khát vẫn thèm men
qua:
Say
đi em! Say đi em!
Đều nói đến rượu, kết nối hợp lý.
c/ Đoạn
3 qua đoạn 4
Từ:
Say
không còn biết chi đời
qua:
Nhưng
em ơi
Đất
trời nghiêng ngửa
Vừa thú nhận “Say không còn biết chi đời” đã thấy “Đất trời nghiêng ngửa”. Mối liên hệ nhân quả, không một kẽ hở.
Nhờ sự chuyển đoạn khéo léo như vậy nên tứ thơ
thông thoáng, bài thơ nhất khí liền mạch, cảm xúc lớn mạnh nhanh chóng.
Điệp
Vận Ở Phần Sau Đoạn 3 - Nói Về Cơn Say
Ta
quá say rồi
Sắc ngả màu trôi...
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời
Sắc ngả màu trôi...
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi
Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời
Có 9 câu thơ ngắn mà đến 6 lần vần ôi (hoặc
ơi) - điệp vận đến mức thoạt nhìn qua là đã mất cảm tình. Nhưng thật lạ! Đọc lên
không những không thấy ngán mà còn thấy hồn mình như bị dính chặt vào ý thơ - cơn
say thực sự, “say không còn biết chi đời”
- của tác giả. Với cơn say ở đỉnh điểm như vậy, không còn chỗ cho lý trí và
con đẻ của nó là sự dối trá, bám víu. Năm câu sau của đoạn kết đúng là tiếng lòng
chân thật.
Điệp vận kiểu ấy, theo tôi, nếu là người làm
thơ tỉnh táo, chắc là sẽ tránh xa. VHC, trong lúc lạc lần trí, đã hiên ngang bước
vào “bãi mìn” ấy, nhưng nhờ thế, đã tạo được một đoạn thơ độc đáo, có giá trị
như một con dấu chứng nhận sự chân thật cho đoạn kết, góp phần hết sức quan trọng
vào sự thành công của thi phẩm say Đi Em.
Đoạn
Kết Tuyệt Vời
Sau khi đã uống đến “Say
không còn biết chi đời” thi sĩ đã cho tuôn ra đoạn thơ:
Nhưng
em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!
Đoạn thơ hay cả về ngôn ngữ, thi ảnh, cấu trúc,
âm điệu và nhịp điệu. Đặc biệt điệp ngữ ở hai cụm từ “em ơi” và “đất trời nghiêng
ngửa” cho độc giả như tôi cái cảm giác đang nghe CODA của một bản nhạc, được
viết rất khéo bởi một nhạc sĩ tài danh. Thành sầu của ông như đang chịu một trận
động đất mạnh đến mức “đất trời nghiêng
ngửa” mà vẫn “chưa sụp đổ” và đã
chuyển từ chỗ “chưa sụp đổ” – còn chờ
đợi, còn một chút hy vọng mong manh - đến chỗ “không sụp đổ” – nghĩa là đã hoàn toàn tuyệt vọng. Nỗi buồn sầu đã dâng
lên đến đỉnh điểm. Chữ “không” ở câu cuối “đắt” như kim cương và ẩn dụ của cả đoạn
thơ thật tuyệt vời.
Cảm
Xúc Dâng Tràn - Hồn Thơ Lai Láng
Cảm xúc tầng 1: Theo tôi, VHC thành công trong
việc trao tặng độc giả những cảm giác khoái trá ở tầng 1. Ngôn ngữ thơ của ông
chắt lọc, trau chuốt, hình tượng đẹp một cách lộng lẫy, kiêu sa, câu thơ mạch lạc,
trong sáng. Nói theo ngôn ngữ bóng đá, kỹ thuật cá nhân của các cầu thủ trong
Say Đi Em điêu luyện, thuộc đẳng cấp cao, nhìn qua là thấy có cảm tình và nể phục.
Cảm xúc tầng 2: Trong Say Đi Em thế trận chữ nghĩa được dàn trải
hợp lý, tạo hiệu quả tối đa cho việc chuyển tải tứ thơ. Vần và nhịp điệu giúp dòng
chảy của tứ thơ thông thoáng. Độc giả như được xem một trận bóng đá mà đội phe
mình công thủ, lên xuống nhịp nhàng, đấu pháp toàn đội kín kẽ, hoàn hảo.
Cảm xúc tầng 3: Là thứ cảm xúc cao cấp nhất
trong thơ - nếu đến mức dâng tràn, ta có hồn thơ. Để có hồn thơ bài thơ cần mấy
điều kiện sau đây:
1/ Tứ thơ không phân mảnh đứt đoạn mà phải được
dàn trải sao cho ý này nối tiếp ý kia, không ngừng nghỉ.
2/ Thể thơ phải như con kênh thông thoáng để
khi câu chữ từ tứ thơ tuôn xuống có thể thành dòng thơ. Trong Say Đi Em, chỉ mới
bước vào đầu đoạn 2 là men rượu đã ngấm, cảm xúc quyện lấy tứ thơ để cùng chảy
một dòng.
3/ Thi sĩ phải nổi điên để cảm xúc sôi lên phủ
mờ lý trí. Trường hợp Say Đi Em, bắt đầu vào đoạn 3 là lý trí đã trốn chạy khá
xa, và đến giữa đoạn 3 thì hoàn toàn mất dạng. Cứ thế cho đến lúc thi sĩ “Say không còn biết chi đời”.
4/ Phải kết hợp để khi cảm xúc lên đến đỉnh điểm
(cao trào) thì cũng là lúc thi sĩ tuôn ra điểm cốt yếu của tứ thơ. Đó sẽ là tiếng
lòng chân thật của ngài. Ở Say Đi Em là đoạn 3 và đoạn 4.
Nếu thi sĩ cao hứng đến mức nổi điên mà điều
kiện 1 và 2 không được thỏa mãn thì dù không có hồn thơ bài thơ cũng có chút ít
cảm xúc tầng 3. Đây là thứ cảm xúc cho độc giả cảm giác khoan khoái đặc biệt hơn
nhiều so với cảm xúc tầng 1 và 2.
Say Đi Em không những có đủ 4 điều kiện trên mà
điều kiện nào cũng đạt đến mức hoàn hảo, hơn nữa, dòng chảy của tứ thơ nhanh và
mạnh, nên có thể nói mà không sợ quá lời: Bài thơ có cảm xúc dâng tràn, hồn thơ
lai láng.
So sánh với Hồ
Trường của Nguyễn Bá Trác - một bài thơ được nhiều người khen là “hào khí ngất trời” - cảm xúc của Say Đi
Em mạnh hơn nhiều
Những
Nét Chính Trong Nghệ Thuật Thơ Của “Say Đi Em”
Say Đi Em là bài
thơ có độ dài bậc trung – 44 câu, 283 chữ, mỗi câu trung bình có 6,4 chữ. Nhưng
chỉ với số chữ, số câu như thế tác giả đã đưa vào khá nhiều tuyệt chiêu thi ca.
Để độc giả không bị phân tâm hoặc sa đà vào những tiểu tiết có tính “kỹ thuật cá
nhân” (câu chữ) ở đây tôi chỉ nhắc đến tài thơ của thi sĩ về mặt thế trận và cảm
xúc. “Kỹ thuật cá nhân” sẽ được ghi lại ở “Phần Đọc Thêm”
ƯU ĐIỂM:
1/ Vẫn còn vóc
dáng, âm điệu của Thơ Mới nhưng có nhiều phá cách độc đáo.
2/ Tứ thơ đáng
chú ý: Nỗi lòng phức tạp của tác giả – mặc cảm tội lỗi nhưng đáng thương, đáng
kính trọng, đặc biệt là sự can đảm, dám nói lên sự thật.
3/ Bài thơ có tính
nhạc cao, nhất là nhịp điệu. Thơ, nhạc, họa hòa quyện lấy nhau thành một khung
cảnh vừa sống động, vừa lung linh mờ ảo.
4/ Sử dụng điệp
vận nặng tay ở phần sau đọan 3 - cột chặt hồn người đọc vào ý thơ, vào dòng cảm
xúc, làm nổi bật ý nghĩa của đoạn thơ.
“Ta quá say rồi
… Say không còn biết chi đời”.
5/ Đoạn kết
hoàn hảo, để lại ấn tượng sâu sắc.
6/ Vần rất đậm
nhưng không có hội chứng nhàm chán vần, đọc lên nghe không ngán, không nhàm, không
chán. Không bị đắp mô nên tứ thơ thông thoáng, chảy thành dòng; cảm xúc cũng chảy
thành dòng, đưa tứ thơ lên đỉnh điểm, tạo được cao trào.
7/ Lý trí trốn
biệt, lời thơ Thật (viết hoa), cảm xúc dạt dào, hồn thơ lai láng.
8/ Đạt được mục
đích quan trọng nhất, cao cả nhất của thơ là cho thi sĩ với độc giả, người với
người cơ hội được trao đổi tâm tình bằng Tiếng Người Chân Thật. Vũ Hoàng Chương
– tác giả của Say Đi Em - xứng đáng có một vị trí danh dự trong Bến Bờ Thi Ca.
KHUYẾT ĐIỂM:
Trong 3 câu
Đôi
người gió sương
Đầu xanh lận đận, cùng nhớ thương, càng xót thương...
Đầu xanh lận đận, cùng nhớ thương, càng xót thương...
Hoa
xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, tình nay sao héo?
Cụm từ “cùng nhớ
thương” hơi “chõi” với “tình nay sao héo”. Hai người “cùng nhớ thương” thì sao tình
lại héo?
Vũ
Hoàng Chương Say Thật Hay “Tỉnh Như Sáo”
Nhà phê bình Thu Tứ dẫn lời của nhà phê bình Vũ
Ngọc Phan về bài thơ Say Đi Em như sau:
Về tập Thơ say (1940) của Vũ Hoàng Chương, trong Nhà
văn hiện đại Vũ Ngọc Phan viết “(tác giả) rất chú trọng đến sự gọt dũa
lời thơ (...) Ðọc thơ ông người ta thấy ít cảm động (...) Người ta có cái cảm
tưởng đó chỉ là những lời nhớ hão, thương hờ.” Riêng về bài sau đây (Say Đi
Em), nhà phê bình nhận xét “cái say (của Vũ Hoàng Chương) là cái say phát ra ở
điệu thơ, ở nghệ thuật của ông, hơn là ở những tính tình ông thổ lộ.”(1)
Và nhà phê bình Thu Tứ đưa ra cảm tưởng của mình:
Ðọc thơ ông Vũ này, rồi đọc lời bình thơ của ông Vũ kia, thấy phân vân. Có phải Vũ Hoàng Chương “nhớ hão, thương hờ”? Hay thực ra ông nhớ thật, thương thật, chỉ những lời quá trau chuốt của ông gây cảm tưởng kém chân thành?
“Ta quá say rồi”, nhưng lời thơ của ta cứ tỉnh như sáo, rắc rối hình như là ở đó...(1)
Mặc dù rất kính trọng kiến
thức rất rộng của hai nhà phê bình Thu Tứ và Vũ Ngọc Phan về Văn Học, tôi không
đồng ý với nhận định của hai ông về bài thơ Say Đi Em.
Trong số rất nhiều định
nghĩa thơ tôi may mắn gặp được định nghĩa đề cập đến thời điểm thi sĩ cầm bút làm
thơ của William Wordsworth:
"Poetry is the spontaneous overflow of
powerful feelings: it takes its origin from emotion recollected in
tranquility”.
"Thơ là cảm xúc mạnh mẽ tự động trào ra, khởi đi từ cảm xúc được hồi tưởng trong sự tĩnh lặng." (5)
Có nghĩa
là, trái với suy nghĩ của nhiều người, tuyệt đại đa số thơ được sáng tác, không
phải ngay lúc tác giả tiếp cận với cảnh thơ mà là sau đó một thời gian – dài ngắn
tùy thi sĩ, tùy “độ lớn rộng” của đề tài, của tứ thơ và độ dài của bài thơ. Đó
là thời gian ấp ủ, thai nghén tứ thơ. VHC viết Say Đi Em - một bài thơ bề thế (44 câu, 283 chữ)
- không phải lúc say bí tỉ ở
vũ trường mà là một lúc tĩnh lặng nào đó khi đã về nhà. Có thể sau đó vài ngày.
Có thể vài tuần, vài tháng, và cũng có thể cả năm.
Từ một
câu nói, một cảnh tượng hay một cái gì đó tình cờ khơi gợi, kỷ niệm xưa bùng cháy
trong tâm khảm và thi sĩ ghi lại bằng sự hồi tưởng của mình.
Câu nói
của Thu Tứ
“’Ta quá say rồi’, nhưng lời thơ của ta cứ tỉnh như sáo, rắc rối hình
như là ở đó...”
là nhận
xét của một người chưa làm thơ, hoặc làm thơ mà chưa hiểu được, chưa thấy được,
chưa ý thức được tiến trình làm thơ của mình.
“Ta quá say rồi” không phải là lời của
VHC lúc đang say rượu ở vũ trường mà là phát biểu của một VHC khác, ở một nơi
khác, đang hồi tưởng, để ghi lại bằng thơ cái tâm trạng của anh chàng VHC say bí
tỉ ở vũ trường hôm đó.
Khi thi sĩ cao hứng đến mức
nổi điên, con chữ cứ liên tục trào ra ngòi bút. Lúc ấy, tính “xạo” của cái tôi
văn hóa (và cái tôi teo chim, nếu có) sẽ biến mất; những gì viết ra sẽ là sản
phẩm (không gian dối) của cái tôi đích thực. Tuy nhiên, lời thơ và cả thế trận
chữ nghĩa – dù không có sự kiểm soát của lý trí - vẫn mang dáng dấp đẳng cấp của
nhà thơ. Ngôn chữ trau chuốt, cao sang không vì thế mà chuyển thành bình thường,
dân dã. Câu thơ gọn gàng, trong sáng không vì thế mà thành tối mù, khó hiểu.
Hơn nữa, khi tứ thơ đã dàn
trải xong, thi sĩ có quyền quay lại - với sự hỗ trợ của lý trí - để điều chỉnh,
sửa chữa, miễn là đừng “đắp mô” cản hoặc làm lệch dòng chảy của cảm xúc.
Hồn thơ, tức là cái
hơi nóng của cảm xúc tầng 3, không phải cứ mò mẫm, nắn bóp từng chữ, từng câu là
“bắt” được nó. Cần phải có một tâm hồn nhạy bén, có thể “cảm” được “hận thù đằng
đằng”, “đau thuơng chất ngất”, “hào khí ngất trời” … không phải từ con chữ, từ
câu thơ, mà từ “giữa những hàng kẻ” để “lấy
hồn ta hiểu hồn người” (Hoài Thanh).
Trong bóng đá, không
phải lúc nào cầu thủ trên sân cũng tỉnh táo đi bóng, chuyền bóng, sút bóng theo
đúng bài bản của huấn luyện viên đưa ra. Đôi khi tình huống xảy ra quá nhanh,
không có thì giờ để suy nghĩ tính toán. Lúc ấy cầu thủ phải dựa vào sự nhạy bén,
vào giác quan thứ 6 của mình để phản ứng, để chạy, để chuyền, để sút. Rất nhiều
khi phản ứng ngẫu hứng như vậy lại sản sinh ra những đường chuyền “đẹp như mơ”,
những cú đệm bóng nhẹ nhàng nhưng lại “bẻ gẫy lưng” thủ thành đối phương ghi bàn
thắng. Nhiều cầu thủ xem lại khúc phim đá ngẫu hứng của mình cũng lắc đầu, le
lưỡi, không hiểu sao mình có thể “tài tình” như thế được. Chính lúc cao hứng, nổi
điên, chơi xuất thần, “phi bài bản” như vậy đã tạo nên nét đẹp đặc biệt của bóng
đá, mới đưa bóng đá lên hàng nghệ thuật.
Trong Nhìn Từ Xa
… Tổ Quốc, Nguyễn Duy – trong lúc cao hứng đến mức điên tiết – đã viết về những
tệ hại của XHCN và con người Việt Nam đúng và thật quá, ngôn ngữ hình tượng mạnh
mẽ, sinh động và táo bạo quá. Chính ông sau này cũng phải công nhận “khi viết xong thì chính bản thân tôi cũng bất
ngờ bởi vì không nghĩ là mình viết được những câu thơ như vậy.”
Một ông thi sĩ Trung Quốc nào
đó, nói về kinh nghiệm của mình trong việc uống rượu đã viết:
Dục phá thành sầu duy hữu tửu
Dịch sát nghĩa:
Chỉ có rượu mới phá được thành sầu.
Câu đó có thể đúng với rất nhiều
nguời bầu bạn với Thần Men, nhưng với Vũ Hoàng Chương trong Say Đi Em thì có sự
khác biệt; phải chăng là do nỗi sầu của ông quá sâu đậm? Khi đã đến đỉnh điểm của
cơn say - “Say không còn biết chi đời”
– thi sĩ họ Vũ đã thốt lên:
Nhưng em ơi
Ðất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt thành sầu chưa sụp đổ
Ðất trời nghiêng ngửa
Thành sầu không sụp đổ, em ơi!
Ðất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt thành sầu chưa sụp đổ
Ðất trời nghiêng ngửa
Thành sầu không sụp đổ, em ơi!
những lời mà theo tôi, hoàn toàn
thoát khỏi sự kiềm tỏa của lý trí, và do đó, tuyệt đối không thể là những lời dối
trá.
Hai nhà phê bình văn học tiếng tăm,
đặc biệt là Vũ Ngọc Phan, mà không cảm được hồn thơ, không nhận ra được sự chân
thật trong lời thơ, tứ thơ của Say Đi Em thì kể cũng lạ.
Kết Luận
Vũ Hoàng Chương, bằng kỹ
thuật thơ điêu luyện của mình, đã tạo được dòng chảy thông thoáng cho tứ thơ.
Nhờ thế cảm xúc mạnh mẽ trong cơn say cũng chảy thành dòng, sóng sau dồn sóng
trước. Khi cơn say lên đến đỉnh điểm, cảm xúc dâng lên cao ngất, cũng là lúc tứ
thơ vừa chấm dứt – bài thơ kết thúc ở cao trào, hồn thơ lai láng. Với cảm xúc ở
tầng 3 mạnh mẽ như thế, hồn thơ nóng bỏng như thế, lý trí đã bị phủ mờ. Lời thơ
lúc ấy – trào ra qua một ngõ ngách nào đó từ vô thức – đích thị là tiếng lòng
chân thật của thi sĩ.
Trong bài thơ Say Đi Em,
thi sĩ của chúng ta, nhờ thấm hơi men, đã có thể đưa lý trí của mình “đi chỗ
khác chơi” để có một thi phẩm vừa chân thật vừa thấm đẫm hồn thơ. Ông đã làm được
điều mà ngay cả những nhà thơ siêu thực – bỏ rất nhiều công sức để nghiên cứu,
thử nghiệm, nhằm loại bỏ lý trí (để tìm lời thật) trong thơ – cũng chỉ thành
công phần nào về mặt hình thức. Họ tuy tạo được những vần thơ “phi logic”, có
“những va đập chói lòa của từ ngữ” (J. Vaché), có khả năng ngăn cản lý trí của
người đọc bước vào bài thơ, nhưng đồng thời cũng chặt luôn cây cầu giao cảm giữa
tác giả và độc giả (7).
Theo tôi, với bài thơ Say
Đi Em, Vũ Hoàng Chương đã xứng đáng được mời vào ngồi một chỗ trang trọng trong
Bến Bờ Thi Ca, nơi tụ hội những thi sĩ đã có tác phẩm mà qua đó, nhờ đó, thi sĩ
với độc giả được cùng nhau trò chuyện bằng Tiếng Người Chân Thật.
Phạm Đức Nhì
CHÚ THÍCH:
1 / (Vũ Hoàng Chương, Thu Tứ, gocnhin.net)
2/ (Chi Tiết Thú Vị Về Khoa Thi Nho Học Cuối Cùng,
Chí Đức, kienthuc.net.vn)
3/ (Vũ Hoàng Chương, Wikipedia.org)
4/ (Thiên Tình Sử Của Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương -
Phần 1, Phạm Thị Nhung, Cỏ Thơm)
5/ (William Wordsworth Quotes, Brainy Quote,
brainyquote.com)
6/ (Thiên Tình Sử Của Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương -
Phần 2, Phạm Thị Nhung, Cỏ Thơm)
7/ Vài câu, đoạn thơ Siêu Thực:
a/ Bông hoa này của núi rừng đã vàng đi như những
giọt lệ của chúng ta (Shéhadé)
b/ Dây
trường xuân / thân thể tôi...
Đảo /
cái bụng của nó...
(Char)
c/ Trên
cây cầu, vào cùng một giờ
Cũng vậy
hạt sương trên đầu con mèo cái đang tự dối mình.
(Bréton)
d/
Lẵng xuân bờ giũ trái xuân sa
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm
Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa
Buồn hưởng vườn người vai suối tươi
Ngàn mây tràng giang buồn muôn đời
Môi gợi mùa xưa ngực giữa thu
Duyên vàng da lộng trái du ngươi
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm
Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa
Buồn hưởng vườn người vai suối tươi
Ngàn mây tràng giang buồn muôn đời
Môi gợi mùa xưa ngực giữa thu
Duyên vàng da lộng trái du ngươi
(Buồn Xưa, Nguyễn Xuân Sanh, thivien.net)
Phần
Đọc Thêm
Nét
Đẹp Kiêu Sa Của Ngôn Ngữ Thơ Trong “Say Đi Em”
Ở đây tôi xin tuyển chọn một số chỗ có ngôn ngữ
thơ hay, đẹp để thay cho mục Ngôn Ngữ Thơ, lẽ ra phải có, trong bài bình thơ. Mục
đích là để bài viết khỏi bị loãng vì những chi tiết chưa đến mức thật quan trọng.
Mong những độc giả thích lối bình thơ bài bản thông cảm và lượng thứ.
1/
Hồn ngả lâu rồi nhưng chân
còn dẻo
Lòng trót nghiêng mà bước vẫn
du dương
Lòng nghiêng tràn hết yêu
thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường
lẳng lơ
Đoạn thơ này chứng tỏ tình
của VHC đối với mấy cô ca ve là thứ tình hờ. Chỉ cần hồn ngả, lòng nghiêng là “yêu
thương” trôi tuột mất một cách dễ dàng và nhẹ nhàng.
Tôi nhớ đến bài thơ Nghiêng
của La Thụy. Nhà thơ, chủ trang web Bâng Khuâng, cho lòng chao nghiêng để hương
mê lắng đọng
Chừ hoài niệm
Len lỏi ngoằn ngoèo trong ký ức
Tình xưa hẹn ước.
Len lỏi ngoằn ngoèo trong ký ức
Tình xưa hẹn ước.
Có “chông chênh” thì chỉ “rơi mất
ánh trăng thề” chứ tình thì vẫn đầy ắp. Thi ảnh của Nghiêng đẹp hơn, nhưng
VHC còn sử dụng 2 câu sau để làm cầu nối với đoạn kế tiếp, và đó là một mặt của
tấm bản lề vừa khít. Cho nên xét về thơ thì có thể nói kẻ tám lạng người nửa
cân. Còn nói về tâm hồn thì nhà thơ La thụy hiền lành và dễ thương hơn.
2/
Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét