VÀI NHẬN XÉT VỀ VẦN TRONG THƠ LỤC BÁT
Phạm Đức Nhì
Vần Thơ Lục Bát Liên Tục Không Ngừng.
Thể thơ lục bát có lối gieo vần bài bản, nguyên tắc, vừa yêu vận, vừa cước vận. Tất cả những chữ vần với nhau đều là thanh bằng. Chữ thứ 6 câu lục vần với chữ thứ 6 câu bát, rồi chữ thứ 8 câu bát vần với chữ thứ 6 câu lục kế tiếp - cứ thế cho đến hết bài (1).
Thí dụ:
TRE VIỆT NAM
Tre xanh xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu
Có gì đâu,
có gì đâu
Mỡ màu ít chắt dồn lâu hoá nhiều
…………………………………………….
(Nguyễn Duy)
Các Loại Vần
Chính vận: Phần âm giống nhau, khác phụ âm đầu (xanh manh thành)
Thông vận: Phần âm na ná, gần giống, phụ âm đầu bất kể (ơi tươi vôi)
Chính tự vận: Nguyên chữ giống nhau (tràng tràng, ru ru)
Lạc vận: Khác biệt hoàn toàn (cười loan)
Lục Bát Nhiều Vần
Có thể nói thơ lục bát có vần dầy đặc – giống song thất lục bát - nhiều vần hơn hẳn các thể thơ khác.
Lượng vần của thơ lục bát được tính theo công thức:
Số cặp vần = Số câu – 1
Như thí dụ trên, 8 câu đầu của bài Tre Việt Nam có 8 – 1 = 7 cặp vần (giờ bờ, xanh manh, manh thành, ơi tươi, tươi vôi, màu đâu, đâu lâu).
Trong khi Thơ Mới liền mạch, vần liên tiếp như 8 câu đầu của bài Áo Lụa Hà Đông dưới đây
Nắng Sài Gòn anh
đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Bày vội vã vào trong hồn mở cửa
……………………………………..
(Nguyên Sa)
chỉ có 3 cặp vần (Đông cùng, trắng ngắn, quanh dung) được tính theo công thức: Số cặp vần = (số câu/2) - 1 = 3
Lạc Vận
Với thơ lục bát không nên lơ là với vần - nhất là đừng để lạc vận vì lạc vận là phạm luật. Một câu lạc vận là cả bài thơ “xấu mặt”.
Thí dụ 1:
TÂM ĐỨC LÒNG NGƯỜI
………………………………………………………..
Về nơi đoàn tụ trong lành
Gia đình vui sướng nụ cười tuơi duyên.
(Ghi Nguyen Duc, FB Lục Bát Việt Nam)
Hai câu cuối của bài thơ lạc vận – “lành” không vần với “cười”.
Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có một số câu lạc vận như 2 thí dụ dưới đây.
Một vùng cỏ áy bóng tà
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau
(Câu 97 – 98)
“Tà” và “vài” lạc vận.
Sượng sùng đánh dạn ra chào
Lạy thôi, nàng mới rỉ tai ân cần
(Câu 1095 – 1096)
“Chào” với “tai” lạc vận.
“Không Khéo” Nhưng Không Phạm Luật
Đối với thơ lục bát thì chỉ có lạc vận là phạm luật về vần. Còn những sơ sót như sau đây chỉ là sự “không khéo” của tác giả. Thi sĩ tuân thủ đúng luật đàng hoàng nhưng vì “không khéo” nên có hậu quả không hay cho âm điệu, nhạc điệu của thơ.
1/ Chính Tự Vận
KHÔNG
LÀ GIẤC MƠ
……………………..
Yêu nhau thì phải nồng say
Trọn đời suốt kiếp không thay đổi lòng
Cũng không một dạ hai lòng
Đồng cam cộng khổ vợ chồng bên nhau
……………………
Nguyễn Thanh Phong, FB Lục Bát Việt Nam)
Thi sĩ Nguyễn Thanh Phong đã gieo vần “chính tự” (lòng lòng) – hai chữ giống nhau như đúc. Gieo vần như vậy không sai luật nhưng nghe có “cái gì đó” không thuận tai. Hơn nữa, vừa trùng vận lại vừa trùng ý nên làm dở đoạn thơ.
Mấy câu Kiều sau đây của Nguyễn Du tuy không trùng ý nhưng cũng là kiểu vần “chính tự” (chữ giống chữ). Tuy không phạm luật nhưng cho thấy thi sĩ lúc ấy đang ở “thế kẹt”, không tìm được chữ hay hơn. Dù sao đi nữa cũng giảm giá trị nghệ thuật của thơ.
Sụt sùi giở nỗi đoạn tràng
Giọt châu tầm tã đẫm tràng áo xanh
(Câu 1943 – 1944)
Mừng thầm được mối bán buôn có lời
Hư không đặt để nên lời
(Câu 2090 – 2091)
2/ Quay Lại Vần Cũ Chỉ Sau Một Lần Chuyển Vận
Dưới đây là bài thơ của Nguyễn Quỳnh.
LẠC GIỮA HỒN QUÊ
Hạ nồng thêm nỗi nhớ quê
Chiều nghiêng giọt nắng
đường về
trông theo
Lớn lên từ mảnh đất nghèo
Phồn hoa bỏ lại nặng đeo lối lề
Đồng trong gạo trắng
cơm quê
Thành danh đến mấy cũng về chốn xưa
(FB Lục Bát Việt Nam)
Từ bộ vần (quê về) mới chuyển qua (theo nghèo đeo) đã quay lại (lề quê về). “Hội chứng nhàm chán vần” ở đây không nặng lắm nhưng cũng làm người đọc có cảm giác khó chịu. Thật phí hoài mấy câu thơ hay.
Bởi vậy, nếu không có nhu cầu cho một thi ảnh đặc biệt hoặc một biện pháp tu từ nào đó hãy để dòng chảy của tứ thơ chảy thêm một đoạn nữa rồi hãy quay lại vần cũ cho an toàn.
Đoạn Kiều của Nguyễn Du sau đây cũng “không khéo” tương tự như vậy.
Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa
Trải bao thỏ lặn ác tà
Ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm!
Lòng đâu sẵn mối thương tâm
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.
Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
(Câu 78 – 84)
3/ Cặp Vần Tai Hại Từ Câu Bát
Chúng ta thử đọc bài thơ của Trần Trọng Giá dưới đây:
ĐỜI
Đắng cay này gửi vào thơ
Để đêm chia bóng, ngày chờ ước mơ
Tằm ơi! Sao chẳng nhả tơ
Cho ta vá lại hồn thơ nát
nhàu!
(FB Lục Bát Việt Nam)
Có người gọi đây là lỗi “phong yêu” nhưng tôi không thích cái tên này vì nó dùng cho Đường Luật mà cấu trúc câu của Đường Luật và lục bát khác nhau. Tôi cũng không cho đây là “lỗi” hay phạm luật vì tác giả Trần Trọng Giá cho chữ thứ 6 câu lục vần với chữ thứ 6 câu bát; rồi chữ chữ thứ 8 câu bát vần vói chữ thứ 6 câu lục kế tiếp…. rất bài bản và đúng luật.
Nhưng ông đã không khéo cho chữ thứ 6 (chờ) và chữ thứ 8 câu bát (mơ) vần với nhau. Hậu quả là độc giả phải nghe âm điệu của một chuỗi 5 chữ (thơ chờ mơ tơ thơ) từ 4 câu thơ liên tiếp trùng vần – mà lại toàn là chính vận mới đáng sợ. Vần quá ngọt. Có một tô chè mà nêm đến mấy lạng đường, ngọt lợ đến gắt cổ.
Tương tự như vậy là bài thơ của thi sĩ Đào Việt Đức:
GIẤC MƠ QUÊ
Đêm thu lá rụng
bên hè
Bồn chồn giữa
nỗi bộn bề mơ quê.
Chăn bò thơ thẩn bờ
đê
Nghe con chim cuốc gọi hè lao xao.
……………………………………
(FB Lục Bát Việt Nam)
Cặp vần “bề quê” của câu bát đã đẻ ra một chuỗi 5 chữ cùng vần (hè bề quê đê hè) tạo thành 4 cặp trùng vận (hè bề, bề quê, quê đê, đê hè) đọc lên âm điệu ầu ơ, rất ngán.
Thi si Đào Việt Đức cũng lạc vào bếp của ông Trần Trọng Giá để nấu ra nồi chè Giấc Mơ Quê quá ngọt, khách ăn chè vừa nhấp môi đã lắc đầu ngao ngán.
Đoạn Kiều dưới đây còn “khủng khiếp” hơn.
Đinh ninh hai mặt một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương
Chén hà sánh giọng quỳnh tương
Dải là hương lộn bình gương bóng lồng
Sinh rằng: Gió mát trăng trong
Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam
(Câu 450 – 456)
Trong 7 câu thơ có đến 2 cặp vần từ câu bát (chữ đỏ), tạo ra ngang dọc 8 cặp trùng vận (song lòng, lòng đồng, đồng xương, xương tương, tương gương, gương lồng, lồng trong, trong lòng). Tuy có mấy vần “xương”, “tương”, “gương” lạng xa đi một chút nhưng độ ngọt cũng quá nhiều.
Về luật vần thì Nguyễn Du không sai nhưng ông đã “không khéo” tạo ra một đoạn thơ điệp vận quá đáng không cần thiết; “hội chứng nhàm chán vần” rất nặng, giảm giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
Tóm Tắt
Vần trong thơ lục bát có thể tóm tắt như sau:
1/ Toàn vần bằng.
2/ Chữ thứ 6 câu lục vần với chữ thứ 6 câu bát.
3/ Chữ thứ 8 câu bát vần với chữ thứ 6 câu lục kế tiếp.
4/ Luật duy nhất có thể phạm lỗi là Lạc Vận.
5/ Để ý tránh:
a/ Chính tự vận (hai chữ giống nhau)
b/ Quay lại vần cũ chỉ sau một lần chuyển vận
c/ Cặp vần tai hại từ câu bát
Kết Luận
Bài viết này chỉ chú trọng khía cạnh kỹ thuật, trình bày hết sức đơn giản để độc giả thấy được bức tranh toàn cảnh và mấy điểm thực tiễn về vần. Hy vọng rằng có được chút vốn liếng ấy các bạn trẻ sẽ tự tin hơn khi cầm bút làm thơ lục bát.
Phạm Đức Nhì
CHÚ THÍCH:
1/
Có một loại “lục bát biến thể” như 2 bài dưới đây:
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm
lộn cổ xuống ao.
Ông ơi, ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.
(Ca dao, khuyết danh)
Bão lặng mà gió còn lay
Khiến dạ bao ngày ảo não sầu
ĐAU
Chỉ ước rạng
rỡ về sau
Cho trúc xanh màu để
thắm nhành mai.
(Tấn Phước Lê, FB Luật Thơ Tổng Hợp)
Vần ở câu lục vẫn như thường lệ. Câu bát gieo vần ở chữ thứ tư. Tuy nhiên, loại “lục bát biến thể” này rất ít gặp.
Ngoài ra có người còn tách riêng 2 câu đầu của đoạn thơ dưới đây và tặng cho nó danh hiệu “lục bát vần trắc”.
Tò vò mà nuôi con nhện
Ngày sau nó lớn nó quện nhau
đi
Tò vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi nhận
hỡi nhện đi đàng nào?
(Ca dao)
Theo tôi đây chỉ là một sự phá cách đột hứng trong ca dao tục ngữ. Cũng có thể là một kiểu biến thể của song thất lục bát. Sau đó, vì không có nhiều người hưởng ứng sáng tác nên tôi chỉ xem nó như một trong vài trường hợp cá biệt, chưa thể nâng lên hàng “thể thơ”.
Do đó, cho đến thời điểm này, lục bát chỉ gieo toàn vần bằng, không có vần trắc.
LUẬT BẰNG TRẮC TRONG THƠ LỤC BÁT
Người làm thơ Đường Luật phải biết và chấp nhận bó mình trong niêm luật vần đối của nó. Thơ lục bát chỉ có luật, vần nên thi sĩ không bị niêm, đối “kềm kẹp”. Trong bài viết ngắn này tôi chỉ bàn về luật.
Đọc xong chắc có người thắc mắc “Sao tui đọc sách và những bài viết trên mạng thấy luật bằng trắc trong thơ lục bát cũng rườm rà, rắc rối lắm mà sao ông viết lại đơn giản quá vậy? Có ‘ăn bớt’ không đó cha nội?”
Câu trả lời của tôi:
Sau một thời gian dài làm thơ lục bát nhiều thi sĩ đã “vượt rào”, phớt lờ luật tắc. Độc giả mới đầu còn thấy lạ lạ, kỳ kỳ. Đọc riết rồi thấy cũng “ổn” nên bảo nhau “Không có gì mà ầm ĩ”. Dần dà một vài luật tắc rườm rà đó “tuân theo cũng được mà phớt lờ cũng không sao”. Đó là quy luật tiến hóa của thi ca.
Vì thế ở đây tôi chỉ nói đến những điểm luật cốt yếu – ở thời điểm này mà không tuân thủ thì bài thơ sẽ bị chê là “mất tính lục bát”.
1/
Chữ thứ 6 câu lục, chữ thứ 6 và chữ thứ 8 câu bát phải là thanh bằng.
2/
Chữ thứ 4 câu bát phải là thanh trắc.
Mười chữ còn lại thì tự do - bằng cũng được mà trắc cũng không sao.
3/
Nếu chữ thứ 6 của câu bát thanh huyền (dấu huyền) (thí dụ 1) thì chữ thứ 8 phải thanh ngang (không dấu) và ngược lại (thí dụ 2).
Thí Dụ 1:
Ba đi Hà Giang mua chè
Kêu con lên giúp đem về Hà Nam
Trong thí dụ này tôi “chơi nổi”, chọn 10 chữ còn lại toàn là thanh bằng. Nếu bạn không thích thì tự do thay đổi.
Thí dụ 2:
Bác Cả bán sáu mẫu vườn
Để lại một mẫu chú Hương cất nhà
Ở đây tôi chọn 10 chữ còn lại là thanh trắc. Dĩ nhiên, bạn cũng có toàn quyền thay đổi.
Luật bằng trắc của lục bát chỉ có thế. Bạn chỉ cần để ý 4 chữ (in đậm) – 3 bằng một trắc - thì thơ lục bát của bạn luật sẽ vững như bàn thạch.
Phạm Đức Nhì
CHÚ THÍCH:
1/ Trong trang Lục Bát Việt Nam trên Facebook có bài thơ Nước Mắt Ngày Gặp Lại của Thanh Tu có 2 câu:
Hôm nay mình gặp lại nhau
Ôm chặt bạn mà nỗi đau nhói lòng
Với luật thơ lục bát hiện hành thì nó phạm luật (chữ “mà” phải chuyển thành chữ khác có thanh trắc mới đúng). Với con mắt người bình thơ như tôi thì bài thơ thất bại một cách oan uổng; ý tứ có hay tôi cũng ngoảnh mặt làm ngơ. Nhưng biết đâu mấy chục năm nữa cách nhìn nhận luật thơ phóng khoáng hơn, bài Nước Mắt Ngày Gặp Lại (hay những bài phạm lỗi tương tự) sẽ được bình phẩm một cách cởi mở hơn.
Anh Phạm Đức Nhì chỉ có một bản Kiều, không rõ in năm nào.
Trả lờiXóaAnh trích và nói Nguyễn Du lạc vận! Thật là quá ư BẤT CẨN!
Xin báo với anh là bản Kiều của TS Phan Tử Phùng chủ biên, 1024 trang khổ 16 x 24, nhã xuất bản lao Động, 2015; câu
Một vùng cỏ áy bóng tà
Gió hiu hiu thổi một và bông lau
(Câu 97 – 98)
“Tà” và “và” không lạc vận.
Sượng sùng đánh dạn ra chào
Lạy thôi, nàng mới rỉ trao ân cần
(Câu 1095 – 1096)
"Chào" và "trao" không lạc vận!
Bản Kiều do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo, Nhã Nam và nhà xuất bản Thế Giới in năm 2015 cũng như bản của TS Phan Tử Phùng.
Mong anh thận trọng!
Kính bác Vũ Nho
XóaTôi cũng dựa vào những trang web sau đây:
1/
TRUYỆN KIỀU BẢN 1866
Bản Liễu Văn Ðường—Nghệ An
by Nguyễn Quảng Tuân—Phiên âm - khảo dị
Published by Văn học & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học (2004)
Câu 97-98
没漨𦹵愛䏾斜
Một vùng cỏ áy bóng tà,
囂囂𠺙没𢽼𦰟𦰤
Gió hiu hiu thổi một vài ngọn lau.
http://www.nomfoundation.org/nom-project/tale-of-kieu/tale-of-kieu-version-1866
2/
Truyên Kiều Trọn Bộ
Câu 97-98
Một vùng cỏ áy bóng tà
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau
Câu 1095-1096
Sượng sùng đánh dạn ra chào
Lạy thôi, nàng mới rỉ tai ân cần
https://sites.google.com/site/khonggianketnoidqt/truyen-kieu-tron-bo
3/
3254 Câu Thơ Lục Bát Truyện Kiều Nguyễn Du Trọn Bộ
Câu 97-98
Một vùng cỏ áy bóng tà
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau
Câu 1095-1096
Sượng sùng đánh dạn ra chào
Lạy thôi, nàng mới rỉ tai ân cần
https://thinhphapam.com/truyen-kieu-nguyen-du/
4/
Truyện Kiều Của Nguyễn Du
Câu 97-98
Một vùng cỏ áy bóng tà
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau
Câu 1095-1096
Sượng sùng đánh dạn ra chào
Lạy thôi, nàng mới rỉ tai ân cần
https://download.vn/truyen-kieu-44606
5/
Đọc truyện/ Truyện Kiều
Câu 97-98
Một vùng cỏ áy bóng tà
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau
https://www.wattpad.com/169921460-truy%E1%BB%87n-ki%E1%BB%81u-nguy%E1%BB%85n-du-1-244-m%E1%BB%9F-%C4%91%E1%BA%A7u
Nguyễn Du có tiếng là ngôn ngữ thơ trác tuyệt.
Tôi thấy trong “một và bông lau” cũng như “rỉ trao ân cần” “và & rỉ trao” không “Nguyễn Du” tí nào.
Dù sao cũng cám ơn bác đã giúp tôi thấy được những cái (với tôi) là mới lạ.
Chúng ta không có bản Kiều chữ NÔM của chính Nguyễn Du. Các bản in đều là do người này người khác sưu tầm. khắc ván, nên rất khó để từ đó nói Nguyễn Du hay hoặc dở.
Trả lờiXóaCó điều các bản mà anh trích, theo tôi chưa đủ ĐỘ TIN CẬY. Trong khi đó lại có các bản Kiều khác do các học giả đáng tin cậy hơn, chép khác. Tôi dẫn thêm bản Kiều đối chiếu Nôm - Quốc ngữ của cụ Thế Anh, Nxb Văn học 1999. Trang 22. Đáng chú ý là câu 92: Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương. Câu 98 Gió hiu hiu thổi một và bông lau. Chữ một ở hai câu viết giống nhau. Chữ VÀI và chữ VÀ viết khác nhau.
Cũng sách cụ Thế Anh, trang 122 và 123 câu chữ NÔM là "rỉ TRAO", phiên là RỈ TRAO. Thiết nghĩ Sở Khanh mới quen qua thư, ghé sát vào TAI thật không hợp, nên RỈ TRAO có vẻ chính xác hơn.
Tôi dẫn 3 bản Kiều có trong tay chỉ để nói với anh rằng với Truyện Kiều và Nguyễn Du, không thể tùy tiện nói cụ "lạc vận". Kết luận của anh rằng " KHÔNG NGUYỄN DU TÍ NÀO" hết sức chủ quan, với tôi KHÔNG ĐÁNG TIN CẬY TÍ NÀO!
Câu 97-98
Xóa没漨𦹵愛䏾斜
Một vùng cỏ áy bóng tà,
囂囂𠺙没𢽼𦰟𦰤
Gió hiu hiu thổi một vài ngọn lau.
http://www.nomfoundation.org/nom-project/tale-of-kieu/tale-of-kieu-version-1866
Theo tôi chữ “vài” ở đây là rất đáng tin bởi nó được đi kèm một chữ Nôm tương ứng “𢽼”, phải đọc đúng, viết đúng chứ không thể chú giải tùy tiện được.
Nếu đặt câu 42 (có kèm chữ Nôm) ở trên và 2 câu 97-98 ở dưới
Xóa梗梨𤽸點𢽼花
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Một vùng cỏ áy bóng tà
囂囂𠺙没𢽼𦰟𦰤
Gió hiu hiu thổi một vài ngọn lau.
rồi nhìn 2 chữ “vài” (tiếng Việt) và 2 chữ Nôm tương ứng chúng ta sẽ thấy việc “ép” chữ “và” vào câu 98 là hoàn toàn sai.
Tôi đã định không viết tiếp, nhưng thấy anh Phạm Đức Nhì không tự biết mình là ai, lên giọng phán chối tai!( Xin lỗi anh phải nó câu khiếm nhã như vậy!). Tôi nhắc lại vì KHÔNG có bản nôm của Nguyễn Du, không thể TÙY TIỆN nói Nguyễn Du là hay hay dở ở một chữ nào đó. THẾ THÔI! Còn anh cãi chầy đối chiếu một bản NÔM nào đó trên mạng rồi phán HOÀN TOÀN SAI! Hỏi có ai tin anh?
Trả lờiXóaXinh nhắc cho anh là bản Nôm của cụ Thế Anh đối chiếu với quốc ngữ, câu 42, chữ VÀI viết thống nhất với chữ VÀI trong câu 92. Còn chữ VÀ ở câu 98 viết khác hẳn. Không có chuyện "ép" chữ!