Phan
Huy Chú (1782-1840), học giả Việt Nam đời Nguyễn viết: “Văn chương của
cổ nhân thường chia làm hai lối mà người đời vẫn lo ít ai tài kiêm được
cả hai. Người có cái học chuyên về trước thuật thì phần đông lại kém về
lời văn hoa mỹ; trái lại, người có tài ngâm vịnh thì nói chung lại thiếu
đi sự uyên bác. Có tài kiêm được cả hai phương diện ấy, thực khó lắm
thay”! Lê Quý Đôn (1726-1784) là người có được cả hai phẩm chất đáng quý
ấy.
Học giả Phan Huy
Chú lại viết: “Việc trước thuật của Lê công (Lê Quý Đôn) thì như sông
dài bể rộng, đầy tràn, tít tắp, không nơi nào không đến; thế mà sự kỳ
diệu của những lời ngâm vịnh của ông lại cũng như chim (ríu rít) mùa
xuân, hoa (nở) đúng kỳ; âm điệu hay, phong cách thanh tao, đâu phải nhờ
đẽo gọt cầu kỳ mà có thể có được”!
Khi
đi sứ sang nhà Thanh, 3 năm cả đi lẫn về, Lê Quý Đôn đã gặp gỡ, giao
tiếp, thù tạc với nhiều quan chức khoa bảng “thượng quốc”. Phần nhiều họ
vừa đều làm việc quan, lại kiêm cả việc trước thuật, sáng tác văn
chương. Lê Quý Đôn cũng có thời gian giao tiếp, xướng họa với sứ đoàn
Triều Tiên, như Trạng nguyên Chánh sứ Hồng Khải Hy, Trạng nguyên Phó sứ
Lý Huy Trung. Mỗi người mỗi góc nhìn khác nhau, nhưng cũng có nhiều điểm
chung dễ nhận thấy, đó chính là sự ngưỡng mộ tài trí thông tuệ đến mức
khó tin của Lê Quý Đôn, một quan chức ngoại giao Đại Việt trẻ tuổi (mới
32 tuổi), một học giả uyên bác, một thi nhân xuất sắc. Trong thời gian
đi sứ, Quế Đường tiên sinh sáng tác khoảng 300 bài thơ. Chỉ riêng đoạn
đường ngược sông Tiêu-Tương, trong khoảng 15 ngày, Quế Đường tiên sinh
viết 100 bài thơ vịnh cảnh quan, con người, lịch sử, địa dư vùng Tiêu
Tương vốn nổi tiếng này, thường gọi là TIÊU TƯƠNG BÁCH VỊNH.
Có
người thấy Lê Quý Đôn “Anh hoa phát tiết ra ngoài”, cương trực, ngay
thẳng, lại quá tự tin, nên có ý khéo léo, nhắc nhở, như Tần Triều Vu
(tên hiệu là Hỗ Trai). TẦN Triều Vu bấy giờ hơn bốn mươi tuổi, đỗ Hoàng
giáp khoa Mậu Thìn (1748), làm quan trong triều nhà Thanh ở Yên Kinh ,
giữ chức “Phụng trực Đại phu, Viên ngoại lang bộ Lễ”. Tần Triều Vu (Hỗ
Trai) được trao chức “Khâm mệnh biện lý bạn tống sự vụ Giang Tả”, tiễn
sứ đoàn An Nam về nước, đoạn từ Yên Kinh (Bắc Kinh) xuống đến Quế Lâm.
Cuộc tiễn đưa kéo dài, giúp Tần Triều Vu có dịp đọc kỹ tác phẩm QUẦN THƯ
KHẢO BIỆN và THÁNH MÔ HIỀN PHẠM của Lê Quý Đôn. Do đó, ông quan Khâm sứ
Hỗ Trai mới có thể hiểu rõ hơn về tài năng kiệt xuất của ông quan Cống
sứ trẻ tuổi nước An Nam. Sau rồi họ lại trở thành đôi bạn tri âm tri kỷ.
Một tình bạn hiếm có trong đời.
Có
thể nói ngay rằng, Lê Quý Đôn là nhà Nho Việt Nam hiếm hoi dám thẳng
thắn đặt vấn đề “xét lại” cổ nhân, nêu một tấm gương tiêu biểu về tinh
thần hoài nghi, tranh luận khoa học. Ông là người dám thẳng thắn lật lại
những cái gọi là “án cũ”, gần như đã được mặc định. Tiên sinh chủ động
đặt mục tiêu cho mình là “khảo” và “biện”. Tần Triều Vu (Hỗ Trai) sau
khi đọc sách QUẦN THƯ KHẢO BIỆN và sách THÁNH MÔ HIỀN PHẠM của Lê Quý
Đôn, đã nói: “Tôi phục cái tài học cổ của tiên sinh, nhưng cũng có điều
muốn khuyên bác: nếu xem xét việc xưa mà thích dụng với ngày nay, nén
cái mạnh của mình mà tự hạ để học hỏi người dưới, thì những điều thu
lượm được ở sử sẽ dùng mãi không cùng”. Như vậy, có thể nhận ra cái tâm
lý thông thường của nhà khoa bảng nước Đại Thanh. Những lời lẽ khảo biện
hùng hồn, “ý khí quá hào dật” trong QUẦN THƯ KHẢO BIỆN đã khiến Tần
Triều Vu có vẻ chạnh lòng tự ái hay chăng? Tuy nhiên, Tần Triều Vu cũng
buộc lòng phải thừa nhận, rằng Lê Quý Đôn đã dũng cảm bước chân vào một
lĩnh vực quá nhiều gai góc, quá hóc búa, mà các nhà khoa bảng Trung Quốc
đã bỏ trống từ lâu. Ông viết: “Các nhà Nho từ Tần, Hán về sau có bàn
luận, đánh giá (về sử học), nhưng từ đời Tống, Nguyên trở xuống thì
chẳng thấy còn ai. Tệ hơn, có những người buộc sách lại không xem, chỉ
bàn bạc không căn cứ, hoặc có người chỉ trau chuốt câu chữ, gọt giũa văn
từ mà thôi. Sử học không được nghiên cứu đã từ lâu rồi”!
Lê
Quý Đôn cho rằng: “Những việc chính sử ghi chép, dù hoàn hảo đến mấy
cũng không thể hoàn toàn tin theo được”. “Kẻ đọc sách có thể chỉ căn cứ
vào văn mà không xét đến sự thực được chăng”? Với việc nghiên cứu sử
học, Lê Quý Đôn viết: “…Xưa nay, người bàn đến thể truyện ký, thì suy
tôn Sử Ký, Hán Thư; người bàn đến thể biên niên thì đề cao Thông Giám,
Cương Mục. Thể tài, ý chỉ thì không ngoài Kinh truyện. Nhưng các Nho
sinh, Học sĩ chỉ thích danh lý, coi sử học là việc thừa, chú thích sơ
sài, lời bàn luận phần nhiều chưa gợi được ý cho người”!...Nhờ tinh thần
hoài nghi khoa học, ý chí tự tin, Lê Quý Đôn đã có nhiều kiến giải mới
về những vấn đề tưởng như đã cũ, đã ổn định mặc nhiên rồi. Lời “Khảo”,
“biện” của Lê Quý Đôn rất giàu chất nhân văn, rất thuyết phục.
Chánh
sứ đoàn Triều Tiên, Trạng nguyên Hồng Khải Hy, viết về sách QUẦN THƯ
KHẢO BIỆN, có đoạn: “bộ sách đã khảo cứu và bàn luận về sử sách các đời
giống như CHÍ LÂM của Pha Ông (Tô Đông Pha), sách HƯỚNG NGÔN của Mông
Tẩu (Trang Tử), trên dưới mấy ngàn năm (lịch sử), cái này được, cái kia
mất, ai giỏi, ai kém, như thế này thì yên, như thế kia thì nguy, không
chỗ nào là ông không xem xét suy tính đến. Có chỗ (ông) lật lại những án
định cũ, có chỗ ông vạch ra những lời bàn sai lầm qua nhiều đời. Kiến
thức tinh tế, lý giải diệu kỳ (của ông) đã bật trên các hàng chữ. Đoạn
bình luận về học thuyết của họ Chu (Chu Hy), họ Lục (Lục Cửu Uyên) mà
ông đã nêu rõ ở cuối sách, càng cho thấy học thuật của ông thuần chính,
lời văn của ông nhẹ nhàng, thuận lẽ như gió lướt trên mặt nước, không
chút sâu cay gò bó gì cả. Thực chỉ nếm một miếng đã thấy vị ngon của cả
nồi (thức ăn) rồi!”. Hồng Khải Hy còn khen rộng ra: “Cái học của người
phương Nam là chắt lọc lấy những tinh hoa… có lẽ ông đã gần đạt đến bậc
ấy rồi chăng?”…
Ông
Trạng nguyên nước Triều Tiên còn khẳng định rõ thêm về cái nôi rất đáng
quý của văn hóa đất phương Nam, do trời sắp đặt. Rằng “Đại truyện trong
KINH DỊCH nói: Muôn vật đều thấy ở quẻ Ly. Mà Ly là phương Nam. Trong
Ngũ hành thì Ly thuộc “hỏa”. Trong “Tứ đức”, Ly thuộc Lễ. “Hỏa” sáng soi
muôn vật, không nơi nào là không chiếu đến. “Lễ” phân tích mọi điều,
mạch lạc, sáng sủa. Ông (Quý Đôn) là người có tâm trí sáng suốt, phân
định rạch ròi, biết được những cái sâu xa từ đời xưa, chẳng trách ông
tìm thấy cái lý đích thực, dùng lời không sai. Không cầu tinh mà tự
nhiên tinh. Hơn thế nữa, về “Lễ” ông không chỗ nào là không đầy đủ, về
“Lý” không chỗ nào là ông không đi đến tận cùng”! Vẫn chưa thấy là đủ,
trong bài thơ họa thơ Lê Quý Đôn, thi sĩ Hồng Khải Hy còn viết:
Cao cờ thì truyền phả, thuốc thì truyền phương,
Quyển sách nhỏ, khảo cứu chuyên cần ở trăm đời đế vương.
Ghi chép về phương Nam, văn từ đẹp đẽ, bác là bậc nhất”…
Ngài
Phó sứ Trạng nguyên Lý Huy Trung thì viết: “Bác gửi cho tập sách quý,
kính cẩn nâng đọc, cảm thấy như khúc nhạc thái hư, càng dạo càng hay,
khiến người nghe không biết chán”!
Ở
đây, thấy rõ sự chân thực, thẳng thắn, minh bạch, khác hẳn những lời có
vẻ cao ngạo của quan chức “thiên triều”, tự cho mình là cái rốn văn
minh của nhân loại, còn các nước ngoài Trung Hoa thì chỉ là “Man”, “Di”
mọi rợ mà thôi!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét