Thứ Ba, 11 tháng 1, 2022

TÌM HIỂU BÀI THƠ ĐƯỜNG LUẬT “CHIỀU HÔM NHỚ NHÀ”

 


TÌM HIỂU BÀI THƠ ĐƯỜNG LUẬT “CHIỀU HÔM NHỚ NHÀ” CỦA BÀ HUYỆN THANH QUAN

Bùi Minh Trí



"CHIỀU HÔM NHỚ NHÀ” là một trong những kiệt tác thơ thất ngôn bát cú Đường luật của Bà Huyện Thanh Quan

"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,

Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn.

Gác mái, ngư ông về viễn phố

Gõ sừng, mục tử lại cô thôn

Ngàn mai gió cuốn, chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa, khách bước dồn.

Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?".

Hai câu đầu 1 và 2 (Mở đề - giới thiệu về thời gian, không gian, sự vật, sự việc).

Câu thơ đầu (phá đề) "Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn" tả một cảnh hoàng hôn êm đềm. Hai chữ "bảng lảng" như con mắt của câu thơ, tạo nên hình ảnh đặc sắc, đó là ánh sáng nhạt nhòa lúc trời sắp tối, khi gần khi xa, khiến ta thấy nét buồn của buổi chiều tà.

Câu thơ thứ hai (thừa đề, chuyển tiếp ý để đi vào phần sau) “ Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn”. Đối với người xa nhà thì khoảnh khắc hoàng hôn thật là buồn. Nỗi buồn ấy lại được tăng lên bởi tiếng ốc (tù và) và tiếng trống dồn vang lên trong lòng . Ta như còn thấy cả không gian rộng lớn: Chiều dài (tiếng ốc), chiều cao (tiếng trống trên chòi cao) gieo vào lòng người lữ khách một nỗi buồn xa xăm, một niềm sầu thương tê tái. Câu thơ vừa có ánh sáng (bảng lảng) vừa có âm thanh (tiếng ốc, trống dồn) tạo cho cảnh hoàng hôn một màu sắc riêng của miền quê.

Hai câu thực 3 và 4 (Trình bày, mô tả sự vật, sự việc giải thích rõ ý đầu bài)

“Gác mái, ngư ông về viễn phố/Gõ sừng, mục tử lại cô thôn”.

Chiều xuống, ngư ông cùng con thuyền trở về viễn phố (nghĩa là bến xa) với tâm trạng của một ông chài sau một ngày làm việc tự thấy được nghỉ ngơi nhàn hạ, thoải mái. Động từ "gác mái" tức là gác mái chèo, biểu đạt một tâm thế nhàn tản của ngư ông.

Đồng thời trong cảnh là lũ trẻ chăn trâu đưa trâu về nhà, trở lại "cô thôn". Động tác "gõ sừng" của các mục đồng như gõ nhịp câu hát, thật thanh thản, hồn nhiên, yêu đời.

Hai câu luận 5 và 6 (Luận - bình luận 2 câu thực diễn tả suy nghĩ, thái độ, cảm xúc về sự vật, hiện tượng.)

“Ngàn mai, gió cuốn chim bay mỏi/Dặm liễu, sương sa khách bước dồn”. Ta như nghe “ngàn mai” xào xạc trong "gió cuốn" và thấy chim mỏi cánh bay gấp về tổ nơi rừng xanh. Trong “sương sa” mù mịt “dặm liễu” ấy, người lữ khách thì một mình một bóng đang "bước dồn" về nơi mình cần đi tới.

Tác giả mượn cảnh để tả tình, đó là cái sự cô đơn, bơ vơ của người lữ khách trên nẻo đường tha hương nghìn dặm. Hai hình ảnh "chim bay mỏi" và "khách bước dồn" là hai nét vẽ đối nhau, đặc tả sự mỏi mệt, cô đơn. Hai câu luận đã mở rộng thêm ý tứ của hai câu thực để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc. Nữ sĩ sử dụng đảo ngữ: Lẽ ra là chim bay mỏi vào ngàn mai gió cuốn, thì tác giả đưa ngàn mai gió cuốn lên đầu. Cũng như vậy : Lẽ ra là Khách bước dồn vào dặm liễu sương sa thì tác giả lại đưa Dặm liễu sương sa lên đầu. Dụng ý làm nổi bật lên cái nẻo đường xa của miền đất lạ và sự vất vả của khách bộ hành, cánh chim bay.

Về ký thuật ta thấy hai câu 3 và 4 "đối" nhau và hai câu 5, 6 cũng "đối" nhau. Đối thường được hiểu là sự tương phản (về nghĩa kể cả từ đơn, từ ghép, từ láy) bao gồm cả sự tương đương trong cách dùng các từ ngữ. Đối chữ: danh từ đối danh từ, động từ đối động từ. Đối cảnh: trên đối dưới, cảnh động đối cảnh tĩnh, từ Hán Việt đối với từ hán Việt...

Hai câu Thực:

Gác mái đối với Gõ sừng (“gác” và “gõ” là động từ, “mái” và “sừng” là danh từ)

ngư ông đối với mục tử (danh từ Hán Việt đối với danh từ Hán Việt)

về viễn phố đối với lại cô thôn(“về” và “lại” là động từ, “viễn phố” và “cô thôn” là danh từ Hán Việt đối với danh từ Hán Việt)

Hai câu Luận:

Ngàn mai đối với Dặm liễu

gió cuốn đối với sương sa (“gió” và “sương” là danh từ, “cuốn” và “sa”là động từ)

chim bay mỏi đối với khách bước dồn (“chim” và “khách” là danh từ, “bay” và “bước” là động từ “mỏi” và “dồn” là trạng từ).

Nếu một bài thơ Đường luật mà các câu 3, 4 không đối nhau, các câu 5, 6 không đối nhau thì gọi là “Thất đối)

Hai câu cuối 7 và 8 (kết thúc ý toàn bài, khái quát toàn bộ nội dung bài theo hướng mở rộng và nâng cao “Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ/Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?".

Hai câu này của nữ sĩ như hội tụ, dồn nén lại tình thương, nỗi nhớ của mình. Ở đây có sự đối nhau “Kẻ Chương Đài - Người lữ thứ". Chương Đài là điển tích nói về chuyện li biệt, nhớ thương, tan hợp của lứa đôi Hàn Hoành và Liễu thị đời nhà Hán xa xưa. Xin nhắc ra điển tích này để độc giả rõ."Chương Đài" là tên một con đường ở thành Trường An bên Tàu. Đời nhà Đường, Hàn Hoành tuổi trẻ nổi tiếng là một người tài danh. Nhà nghèo kiết, lấy một nàng kỵ nữ họ Liễu ở Chương Đài.Mấy năm sau, quan Tiết độ sứ ở châu Thanh là Hầu Hy Dật mến tài, tâu vua xin Hàn Hoành làm người giúp việc. Bấy giờ, đương lúc nhiễu loạn, Hàn không dám đem Liễu đi theo, để nàng ở lại kinh đô, định chờ dịp tiện sẽ về đón. Nhưng trải qua ba năm trời, Hàn vẫn không về đón được. Nhân lấy vàng đựng vào một cái túi gởi về cho Liễu, kèm theo một bài thơ:

“Liễu ơi, hỡi Liễu Chương Đài,

Ngày xưa xanh biếc, hỏi nay có còn?

Ví tơ buông vẫn xanh rờn,

Hay vào tay khác, khó còn nguyên xưa!”

Liễu được thơ cũng đáp lại:

“Xanh non cành liễu đương tươi,

Năm năm luống để tặng người biệt ly.

Thu sang quyện lá vàng đi,

Chàng về biết có còn gì bẻ vin!”

Sự đối lập "Chương Đài" và "lữ thứ" gợi ra cho ta một cảnh tượng về nỗi buồn biệt li của của du khách nhớ nhà, nhớ quê hương, nhớ người thân yêu . Đó cũng là một tiếng than thở của tác giả được diễn tả dưới hình thức câu hỏi tu từ. "Ai" là đại từ phiếm chỉ, nhưng chúng ta hiểu đó là chồng, con, những người thân thương của nữ sĩ. "Hàn ôn” là nóng lạnh, "nỗi hàn ôn" là nỗi niềm tâm sự.

Ở đây Người lữ thứ là Bà Huyện Thanh Quan trong chiều tha hương, thấy mình bơ vơ nơi xa xôi, nỗi buồn thương không sao kể xiết.

Bà Huyện Thanh Quan, với tài sáng tạo vô song về chọn từ, tạo hình ảnh, đối câu, đối từ, đối thanh, tỏ rõ là một hồn thơ tài hoa, một ngòi bút trang nhã. Cảnh vật và tạo hình của nữ sĩ trở nên gần gũi, thân thuộc với mọi con người Việt Nam, mang tâm hồn đậm đà bản sắc dân tộc.Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của nữ sĩ là một bông hoa nghệ thuật chứa chan tình thương, nỗi nhớ, làm bâng khuâng xao xuyến lòng ta.

BÙI MINH TRÍ

 muaxuan1234

  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét