KHÁI LƯỢC VỀ
SÁNG TẠO
CỦA NGUYỄN DU
TRONG “TRUYỆN
KIỀU”
SO VỚI “KIM
VÂN KIỀU”
CỦA THANH TÂM
TÀI TỬ
Vũ Nho
Đ
|
ến khi học ở bậc Đại học,
tiếp xúc với “Truyện Kiều” (TK) của Đại thi hào Nguyễn Du, tôi vẫn hoang mang giữa
hai xu hướng đánh giá. Một bên coi Nguyễn Du chỉ là người chuyển thể tác phẩm
(dịch thành thơ) “Kim Vân Kiều” (KVK) của Thanh Tâm Tài Tử. Những chi tiết như
“vành ngoài 7 chữ, vành trong 8 nghề” (7 điều và 8 phép), hoặc như bức thư của
Sở Khanh chỉ vỏn vẹn hai chữ “Tích việt” cũng được Nguyễn Du dùng lại trong TK.
Nghĩa là Nguyễn Du tài chỉ là tài chuyển nội
dung một tác phẩm văn xuôi ra văn vần. Cái tài của cụ chỉ là tài thơ lục bát. Còn
xu hướng khác khẳng định Nguyễn Du tuy dựa vào KVK, nhưng đã thay đổi nội dung,
thay đổi kết cấu, thay đổi các nhân vật để tạo nên tác phẩm TK, một kiệt tác
của Việt Nam và thế giới, đặc sắc cả nội dung và nghệ thuật, trở thành một tiểu
thuyết bằng thơ hiếm hoi của loài người. Thú thực lúc đó kinh nghiệm đọc chưa
nhiều, tài liệu tham khảo lại hiếm và cực kì khó kiếm, lại phải lo học, lo thi
nhiều môn nên nghe bên nào cũng thấy có lí!
Thời
gian qua đi, khi làm cán bộ chỉ đạo bộ môn Ngữ văn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tôi
cũng chỉ có đủ thì giờ để đọc, nắm bắt những nghiên cứu liên quan trực tiếp đến
các trích đoạn TK trong sách giáo khoa. Hiểu cho hết các ý kiến của học giả xưa
nay, các nhà nghiên cứu và những giáo viên giỏi cũng đã là một việc tốn nhiều
tâm sức. Nhưng càng ngày thì sự “hoang mang” càng giảm. Và một niềm tin vững
chắc dần dần được nhen nhóm. Đến bây giờ thì có thể nói rằng tôi đã tuyệt đối
tin tưởng vào xu hướng thứ hai. Bởi vì các tư liệu cho phép có thể chứng minh
một cách thuyết phục. Sau đây xin nói khái quát những gì tôi thu hoạch được, ngõ
hầu khiến các bạn trẻ khi tiếp xúc với kiệt tác của Nguyễn Du không phải băn
khoăn hay hoang mang như thế hệ chúng tôi ngày trước.
Nguyễn Du đã sáng tạo điều gì và như thế nào để có TK khác với KVK của
Thanh Tâm Tài Tử?
Câu trả
lời khái lược như sau.
1. Về cốt
truyện và kết cấu
Cốt truyện, Nguyễn Du dựa hẳn vào KVK, nhưng
nhà thơ đã có những sáng tạo. “Ông chỉ
chọn những sự việc chính, lược bỏ nhiều những đoạn rườm rà và có khi tóm tắt
trong một số ít câu cả đoạn dài trong truyện”. (Phạm Đan Quế - Tuyện Kiều
đối chiếu, trang 16). Chúng ta có thể xem bảng đối chiếu chi tiết giữa 20 hồi
của KVK với số câu thơ của Nguyễn Du (trang 17 sách đã dẫn). Chúng tôi chỉ tóm
tắt mấy điều nổi bật nhất. Đó là hai hồi 5 và 6 trong KVK tổng cộng 30 trang in
chữ Hán, Nguyễn Du chỉ tóm lại trong 20 câu
lục bát. Hồi thứ 20 được Nguyễn Du viết dài nhất với số lượng 516 câu lục bát. Nếu
tính gộp ba hồi cuối thì số trang in trong KVK so với số trang toàn tác phẩm là:
104/ 452 chiếm 23% số trang tác phẩm. Trong khi đó trong TK, phần này chiếm: 1024
câu/ 3254 câu chiếm 31, 46% . Nguyễn Du
viết hồi cuối cùng dài nhất bởi vì bằng tấm lòng nhân đạo sâu sắc của mình, nhà
thơ muốn cho nhân vật được hưởng hạnh phúc sum họp ngay trên cõi đời này chứ
không phải đợi tới kiếp sau. Nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh đã đúng đắn khi đánh
giá rằng "Thật là sai lầm khi chúng ta theo con mắt “lôgic”, “duy lí” của
người phương Tây mà chê bai rằng cái hậu ấy trong tác phẩm cổ điển phương Đông
là “công thức”, là “tuổi ấu trĩ của văn học”(*).
Đoạn
đầu tiên của Truyện Kiều tương ứng với hồi thứ nhất Kim Vân Kiều, Nguyễn Du
viết tổng thể 170 câu lục bát, trong số đó chỉ có 68 câu là dựa vào thông tin
trong KVK. Như vậy chỉ chiếm có 40%. Còn lại 60% số câu thơ là của
riêng Nguyễn Du.
Dưới
đây là công lao của các tác giả Nguyễn Thạch Giang, Triệu Ngọc Lan, Lô Úy Thu
khi so sánh:
“Trong một bài biên khảo đăng trong tuyển tập “Nguyễn Du, Tác giả
và Tác phẩm” do NXB Giáo Dục ấn hành năm 1999 tại Việt Nam, các tác giả Nguyễn
Thạch Giang, Triệu Ngọc Lan, và Lô Úy Thu đã bỏ công tìm tòi những phần trong Kim Vân Kiều truyện đã bị cụ Nguyễn Du lược bỏ. Khi so sánh Đoạn
Trường Tân Thanh với Kim Vân Kiều Truyện do Xuân Phong Văn nghệ xuất bản, các
tác giả này nhận thấy cụ Nguyễn Du đã loại bỏ 142 trang trên tổng số 214 trang,
tức khoảng 2/3 tác phẩm. Cụ chỉ giữ lại 72 trang và dùng các chi tiết trong số
trang này để viết thành 1313 câu thơ trong tổng số 3254 câu của Đoạn Trường Tân Thanh”.
Tác giả
bài viết đăng trên vanhaisp. blogspot. com còn chi tiết hơn đã lập bảng thống kê
những sáng tạo của Nguyễn Du về một sốvấn đề: “
ĐT
TT
|
Theo ý KVKT
|
Số câu do Nguyễn Du sáng
tạo
|
Bố cục
|
Tư tưởng
|
||||||||
Tả cảnh
|
Tả người
|
Nhớ người yêu
|
Nhớ cha mẹ
|
Băn khoăn
|
Tâm lý yêu đương
|
Cộng
|
Bỏ ý
|
Chuyển ý
|
Có ý nghĩa tôn giáo
|
Có tính chất tiến bộ
|
||
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11
|
12
|
13
|
3254
câu
|
1313
|
357
|
171
|
38
|
23
|
124
|
196
|
1941
|
2/3
KVKT
|
15
|
20
|
4
|
Các thành phần khác: 1022 câu”.
Dẫu sao thì vẫn có một vài chỗ tính toán nhầm (Bởi lẽ
cộng các cột từ 3 đến 8 sẽ được 909 câu. Cộng với 1022 câu khác và 1313 câu dựa
vào KVK thì tổng là: 3244 câu, thiếu 10 câu) và việc có 13 cột ngang làm cho
bảng bị rối. Nhưng chúng tôi cũng ghi nhận sự cố gắng của tác giả về việc cụ
thể hóa những câu thơ sáng tạo của Nguyễn Du về tả người, tả cảnh, nhớ người
yêu, nhớ cha mẹ, tâm lí yêu đương.
2. Về các đoạn
quan trọng trong tác phẩm
Nguyễn Du cũng làm
khác Thanh Tâm Tài Tử trong KVK. Các chi tiết khác, dưới đây chúng tôi sẽ đối
chiếu và thống kê cụ thể. Chỉ biết rằng các đoạn trích xưa nay trong các sách
giáo khoa văn chương, Nguyễn Du đều có thay đổi. Chúng ta sẽ lần lượt xem xét đối
sánh các đoạn trích sau đây:
1. Đoạn mở đầu
2. Kim Trọng gặp Thúy
Kiều
3. Thề nguyền
4. Mã Giám Sinh mua Kiều
5. Trao duyên
6. Nỗi thương mình
7. Thúc ông kiện con trai
8. Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều
9. Kiều nhớ Thúc Sinh
10. Từ Hải từ biệt Thúy Kiều
11. Báo ân báo oán
12. Bảy lần nhớ nhà và người tình
3. Về một số
chi tiết
Nguyễn Du đã lược bỏ những chi tiết dài dòng, tả thực
trong KVK, hoặc rút gọn trong một hai câu. Các chi tiết như 300 lạng bạc chi
dùng vào các việc gì, Chung Sự viết tờ bảo lãnh, Thúy Kiều viết tờ hôn ước, giấc
mơ Kiều gặp Kim Trọng, Tú Bà đãi tiệc láng giềng, Tú Bà đánh Thúy Kiều (2 đoạn),
Tú Bà nói chuyện với Bộ Tân, Thúc Sinh nhờ Vệ Hoa Dương, Tú Bà cùng Mã Giám
Sinh đến nhà Vệ Hoa Dương trả tờ hôn thú cũ, viết tờ hôn thú mới; Thúy Kiều
ngâm thơ ở Chiêu Ẩn am; Bạc Hãnh định lừa lấy đồ dùng riêng của Thúy Kiều; cảnh
báo thù của Kiều với các kẻ ác; Từ Hải đánh nhau với hai tướng của Hồ Tôn Hiến,
Hồ Tôn Hiến sai người thuyết hàng; chọn hai thuyết khách đóng vai người hầu; Từ
Hải mắng La Trung Quân, Kim Trọng muốn làm văn tế Kiều, “nhưng vì tình thương quá độ khiến cho văn tứ khô khan không thể viết
được câu nào, đành phải ca bài Chiêu hồn của Tống Ngọc ngày trước để khóc nàng”,
…
Điều
quan trọng là lược bỏ các chi tiết nhưng mạch truyện vẫn đảm bảo thông suốt.
4. Về các nhân
vật trong Truyện Kiều
4. a. Nguyễn Du không đưa thêm một
nhân vật mới nào. Nhưng nhà thơ đã lần lượt bỏ các nhân vật không quan trọng.
Đó là
các nhân vật Chung bà, Chung Cần, Tô Nương, thằng câm người ở của Sở Khanh, Đô
Trá người ở cho Tú Bà, Bộ Tân (đi cùng Thúc Sinh đến ra mắt Kiều), Vệ Hoa Dương,
mụ vú họ Lý, Thúc Sô, Thúc Năng, Lão bộc trong nhà Hoạn Thư, Đạo sĩ Đặng Huyền,
Triệu Không Bất Hà, tên buôn người “lông mày rậm, mắt to, môi đen, râu xồm
giống như một tên tướng cướp”, Sử Chiêu, Hạ Báo, Lôi Phong (tướng của Từ Hải), Bốc
Tề, Cừu Nhiêu, Thủ Bị Không Hỗn, Hoa Nhân (lão già thuyết khách), La Trung Quân,
Tuyên Ngãi, Dụ Ân (hai nữ thuyết khách), Lợi Tiện, Quyền Nghi, Nữu Hợp, Trương
Năng, Lý Can, Âm Mưu. Như vậy khoảng 30 nhân vật đã được Nguyễn Du lược bỏ mà
mạch truyện vẫn thống nhất và không bị ảnh hưởng.
4.b. Đối với các
nhân vật chính và nhân vật phụ nhưng quan trọng, Nguyễn Du cũng đã làm thay đổi
tính cách và diện mạo
Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải, Mã Giám Sinh, Tú
Bà, Hoạn Thư, Thúc Sinh đều có những thay đổi với mức độ khác nhau. Nhưng rõ
ràng là không còn giống với nguyên mẫu trong KVK.
Lần lượt, chúng tôi sẽ tiến hành đối sánh để khẳng định
sự sáng tạo nhiều phương diện của thiên tài Nguyễn Du.
Các nhân vật được so sánh và bình luận trong phần ba gồm:
1. Thúy Kiều
2. Kim Trọng
3. Từ Hải
4. Thúc Sinh
5. Mã Giám Sinh
6. Tú Bà
7. Sở Khanh
8. Hồ Tôn Hiến
9. Hoạn Thư
10. Kế Thị
11. Thúy Vân
5. Về một số vấn đề khác
Chúng
tôi tiến hành so sánh và bình luận 3 vấn đề khác biệt giữa Kim Vân Kiều với
Truyện Kiều. Ba vấn đề đó sẽ được trình bày ở phần thứ tư của sách này:
1.
Vấn
đề tiền bạc
2.
Vấn
đề số phận phụ nữ
3.
Vấn
đề triết lí
Trước
nay, không nhiều người để ý tên gọi ban đầu của Truyện Kiều. “Đoạn trường tân
thanh”. Tại sao Nguyễn Du lại đặt tên tác phẩm chữ Nôm của mình bằng chữ Hán
như vậy? Tại sao lại là “Đoạn trường” (Đứt ruột)? Tại sao lại là “tân thanh” (tiếng
kêu mới)? Trong Kim Vân Kiều, Thanh Tâm Tài Tử có cho nhân vật Đạm Tiên nói về
Hội Đoạn trường. Hội có Giáo chủ, lại có “Đoạn trường sách”. Kiều làm thơ hay
đến mức có thể chắc chắn chiếm giải nhất tập “Đoạn trường”. Kim Vân Kiều là
tiếng kêu đứt ruột về số phận của người con gái tài sắc trong cảm nhận của
Nguyễn Du. Nhà thơ Việt Nam cảm với tiếng kêu đó, nhưng làm cho tiếng kêu đứt
ruột đó MỚI hơn. Nghĩa là Nguyễn Du đã có
chủ đích, chủ tâm, chủ ý “sáng tạo” chứ không lặp lại. Nghĩa là Nguyễn Du làm
mới hơn tiếng kêu đứt ruột cũ. Mà muốn làm mới, thì phải làm khác những gì Thanh Tâm Tài Tử đã làm. Đó chính là nguyên
nhân, cũng là động lực thúc đẩy Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều.
Chắc
không ít người sẽ nghĩ và băn khoăn rằng, việc so sánh hai tác phẩm, một bên
KVK là tiểu thuyết chương hồi (văn xuôi) với một bên TK là tiểu thuyết bằng thơ,
truyện thơ (thơ) rồi chỉ ra sự khác biệt liệu có thỏa đáng? Bởi vì hai loại thơ
và văn xuôi vốn rất khác nhau. Đem so sánh thế nào cũng tìm ra nhiều điều khác biệt. Vậy
thì có cần tốn công, nhọc sức để chứng minh một điều khá hiển nhiên hay không?
Xin thưa lại là chúng tôi cũng đã cân nhắc và tính đến điều đó. Tuy nhiên, một
sự thật là Nguyễn Du đã dựa vào tiểu thuyết chương hồi KVK để viết tiểu thuyết
bằng thơ TK. Cả hai cùng là tiểu thuyết với cốt truyện, các nhân vật và các chi
tiết. Bởi vậy so sánh là có cơ sở tin cậy. Chúng tôi cũng biết rằng văn xuôi có
lợi thế để miêu tả tỉ mỉ và chi tiết hoàn cảnh và tính cách nhân vật. Văn xuôi
rất chú trọng đến chi tiết. Còn thơ thì thiên về ấn tượng, có chú ý chi tiết, nhưng
nghiêng về khái quát, ước lệ. Nhưng một khi Nguyễn Du bỏ đi các chi tiết trong
KVK, không chỉ đơn thuần là về mặt diễn đạt, nhà thơ không thể viết kĩ như nhà
văn. Nguyễn Du với thiên tài thi ca của mình, hoàn toàn có thể viết đầy đủ về
chi tiết đó. Sở dĩ bỏ đi là vì chi tiết đó bất lợi, hoặc có hại cho việc thể hiện
tính cách nhân vật. Ví dụ các chi tiết nói về quan hệ của Thúy Kiều với Tú Bà, sau
khi Kiều bị đánh đập tàn nhẫn và phải hứa “Chút lòng trinh bạch từ sau xin
chừa”. Trong KVK, Kiều hoàn toàn “tự nguyện” theo Tú Bà để làm ăn: “Vậy con tình
nguyện theo má để tính công chuyện làm ăn” (VN nhấn mạnh bằng tô đậm chữ, Truyện
Kiều đối chiếu, trang 218). Kiều gọi Tú Bà bằng má và xưng con. Tú Bà gọi Kiều
bằng con, con gái và xưng má. Cả đến khi Thúc Sinh nhờ Vệ Hoa Dương ép Tú Bà
phải chịu cho chuộc Kiều ra, Tú Bà đến trả tờ hôn ước cũ và viết tờ hôn ước mới,
Tú Bà vẫn gọi Kiều là con gái “Chúc mừng
cho con gái yêu của ta đã lấy được người chồng phong lưu tử tế”. Còn Kiều
thì nói: “Việc đó nhờ hồng phúc của má má
đấy ạ” (Truyện Kiều đối chiếu, trang 254). Nguyễn Du bỏ các chi tiết ấy là
để thấy rõ phẩm hạnh của Thúy Kiều. Kiều là người trong trắng, Kiều không dễ
dàng thỏa hiệp, Kiều phải tiếp khách là bước đường cùng chứ không tình nguyện. Kiều
không thể nhận làm con gái của kẻ độc ác, vô lương tâm Tú Bà. Ví dụ khác, Nguyễn
Du bỏ chi tiết Thúc ông cùng bạn bè Thúc Sinh và những người làm công đến tiễn
Thúc Sinh. Nếu để ông bố tiễn ông con thì làm gì có đoạn "Thúc Sinh từ
biệt Thúy Kiều” đầy lưu luyến và bịn rịn, một trong các đoạn cho thấy ngòi bút
phân tích tâm lí bậc thầy và tấm lòng nhân đạo vô bờ của Nguyễn Du! Ví dụ khác
nữa, Nguyễn Du bỏ hẳn nhân vật Vệ Hoa Dương với các cuộc thương thuyết, ép buộc
Tú Bà. Đó chính là để cho Thúc Sinh có cơ hội chủ động trong việc chuộc Thúy
Kiều. Và cũng là để sau này Thúc Sinh được Kiều nhớ báo ân đầu tiên với lễ vật "Gấm
trăm cuốn, bạc nghìn cân” - một chi tiết mà trong KVK không hề có. Rất nhiều
chi tiết bị Nguyễn Du lược bỏ không phải vì nhà thơ không thể diễn tả bằng thơ,
mà điều quan trọng là Nguyễn Du không muốn có những chi tiết không lợi hoặc có
hại cho nhân vật. Đồng thời chúng tôi cũng lưu ý rằng có không ít lần, nhà thơ
lại nói kĩ, nói chi tiết, nói tỉ mỉ, thậm chí thêm vào các chi tiết không hề có
trong KVK. Như vậy, Nguyễn Du khi cần sáng tạo, đã vượt qua hạn chế và ranh
giới của thể loại thơ, để làm rõ hơn nhân vật cũng như tư tưởng của người viết.
Chẳng hạn tài sắc chị em Thúy Kiều được Nguyễn Du miêu tả tỉ mỉ, chi tiết hơn
rất nhiều những câu miêu tả trong KVK. Nguyên một nhan sắc Thúy Vân cũng cho ta
thấy điều đó:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Bảo
rằng ước lệ thì có ước lệ. Nhưng chi tiết thì cũng vô cùng chi tiết: khuôn mặt,
lông mày, làn da, nước tóc, nụ cười, tiếng nói. Điều này thì nhà thơ lại tỏ ra
chi tiết hơn nhiều so với nhà văn xuôi trong KVK. Ví dụ khác Nguyễn Du thêm chi
tiết "Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
cho Mã Giám Sinh. Nhà thơ cũng thêm chi tiết ngồi vắt nóc cho Tú Bà- “Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay”. Hai
chi tiết nhỏ nhưng góp phần khắc họa sâu thêm tính cách của hai con người “mạt
cưa, mướp đắng”. Trong KVK, một lệnh của Từ Hải ban ra, tất cả người làm ơn, kẻ
gây oán đều bị bắt giải về. Nguyễn Du không làm thế trong TK. Người có ơn thì
phải đối xử đàng hoàng.
Lại sai lệnh tiễn truyền qua
Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên
Mụ quản gia, vãi Giác Duyên
Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời.
Chi
tiết nhỏ thôi. Nhưng rõ ràng chi tiết quan trọng nói rõ nàng Kiều của Nguyễn Du
thật khác xa với nàng Kiều phu nhân của Từ Đại Vương!
Bạn đọc
sẽ thấy nhiều chi tiết bị lược bỏ, bị rút gọn, hay được thêm vào với lời bình
luận của chúng tôi.
Tóm lại
là hoàn toàn có thể so sánh một bên là tiểu thuyết chương hồi với một bên là
tiểu thuyết bằng thơ. Cốt yếu là bằng con mắt nhìn khách quan, trung thực.
Cả cuốn sách này chúng tôi chỉ nhằm một mục đích là làm
rõ Nguyễn Du đã làm khác đi, làm mới hơn, đã sáng tạo rất lớn để biến một tác
phẩm trung bình, không có tiếng tăm gì đáng kể trong các bộ tiểu thuyết chương
hồi của Trung Quốc thành một Truyện Kiều chẳng những nổi tiếng của Việt Nam mà
còn là tác phẩm nổi tiếng của thế giới.
______
(*) Cao Huy Đỉnh - Triết
lí đạo Phật trong Truyện Kiều, trong sách Truyện
Kiều những lời bình, NXB Văn Hóa Thông Tin, 2008, trang 165.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét