Triệu Lam Châu
TÂM SỰ CỦA MỘT NGƯỜI DỊCH THƠ
BÁC HỒ RA TIẾNG TÀY
Triệu Lam Châu: Nhân kỷ niệm 126 năm (19/5/1890 - 19/5/2016) ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ
đại, tôi xin đăng lại bài giới thiệu của mình cho tập thơ dịch Nhật ký trong tù
của Hồ Chí Minh “Xéec mai chang rườn xăng”. Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc –
2009, Triệu Lam Châu dịch sang thơ lục bát Việt và lục bát Tày.
Bài này đã được
đọc tại Đại hội Nhà văn Việt Nam - cơ sở
Nam Trung bộ và Tây Nguyên,
ngày 13
tháng 6 năm 2010, tổ chức tại Đà Nẵng.
Và đã in
trong Tạp chí Nhà văn của Hội Nhà văn
Việt Nam,
số tháng 8 năm 2010.
Tập thơ dịch lục
bát Việt và lục bát Tày Nhật ký trong tù
“Xéec mai chang rườn xăng” đã vinh dự được Giải thưởng Văn học nghệ
thuật Phú Yên năm năm ( 2006 – 2010) - (Tuy Hoà, chiều 17/5/2016).
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh
tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, người chiến sĩ lỗi lạc trong phong trào cộng
sản quốc tế, được nhân dân ta và bạn bè thế giới gọi với một cái tên tôn kính:
Bác Hồ. Không những là nhà cách mạng vĩ đại, Bác Hồ còn là một nhà văn hoá lớn.
Một trong những di sản quý báu Người để lại cho chúng ta là tập thơ Nhật ký trong tù. Bác sáng tác tập thơ
này trong thời gian bị bọn Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch: Cầm tù từ mùa thu
năm 1942 đến mùa thu năm 1943 ở Quảng Tây – Trung Quốc.
Tập thơ toát lên ý chí sắt đá, tinh thần lạc
quan cách mạng của một Người cộng sản vĩ đại, yêu nước thương dân.
Nhật ký trong tù được Bác Hồ sáng tác bằng chữ
Hán, gồm 133 bài thơ. Năm 1960 Viện Văn học dịch ra quốc ngữ. Sau đó Nhật ký
trong tù được đưa vào giảng dạy trong các trường phổ thông và đại học.
Tôi là người dân tộc Tày ở Cao Bằng. Từ thời
học cấp ba phổ thông (1967 – 1970), qua các giờ giảng văn và giọng nói Hà Nội
trong sáng , đầy truyền cảm của thầy Đỗ Huy Quang, tôi vô cùng thấm thía cái
hay cái đẹp của thơ Hồ Chí Minh, nhất là những vần thơ chứa chan tình cảm lãng
mạn cách mạng của Người:
Trong tù không
rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay
khó hững hờ
Người ngắm trăng soi
ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe
cửa, ngắm nhà thơ…
(Nam
Trân – dịch)
Chúng tôi sinh ra và lớn lên
ở miền núi, tâm hồn đẫm chất núi rừng hùng vĩ. Vì vậy những bài trong Nhật ký
trong tù, có liên quan đến hình bóng sông suối, núi rừng – đều gợi cho chúng tôi cảm thấy hết sức gần gũi và
thiêng liêng vô hạn:
Núi ấp ôm mây,
mây ấp núi
Lòng sông gương
sáng, bụi không mờ
Bồi hồi dạo bước
Tây Phong Lĩnh
Trông lại trời
Nam, nhớ bạn xưa…
(Nam
Trân – dịch)
Đặc biệt khi biết tác giả
của những vần thơ thép và lồng lộng tình
người ấy là cụ Hồ (người dân miền núi vẫn thường kính cẩn gọi Người như vậy
trong trái tim mình) – thì chúng tôi lại càng cảm thấy: Cần sống theo gương
sống của cụ Hồ, học tập và rèn luyện tinh thần vượt khó khăn gian khổ theo phong cách của cụ
Hồ:
Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi
trắng tựa bông
Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công.
(Nam Trân –
dịch)
Vì rất yêu thơ Bác Hồ, nên từ năm 1970 tôi đã manh nha ý muốn dịch
thơ của Người ra tiếng Tày. Thực tế cho thấy trong các cuộc bàn luận về thơ Hồ Chí Minh, chúng tôi chỉ nói với nhau bằng
tiếng Tày, nhưng khi trích dẫn thơ Người để minh hoạ cho một luận điểm nào đó,
thì chỉ trích dẫn thơ tiếng Việt thôi. Bởi vì thơ Bác Hồ chưa được dịch ra
tiếng Tày. Vì vậy cái hay cái đẹp của thơ Bác Hồ chưa đến được tâm hồn bà con
người Tày một cách trọn vẹn, bởi rào cản của ngôn ngữ. Nếu dịch thành công thơ
Hồ Chí Minh ra tiếng Tày, có nghĩa là thơ Bác Hồ sẽ đến được tâm hồn của nhiều
dân tộc thiểu số ở miền Việt Bắc một cách trọn vẹn, bởi vì tiếng Tày gần như
được dùng rộng rãi ở vùng này.
Năm 2000 kỷ niệm 110 năm
ngày sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, tôi bắt tay vào việc dịch tập thơ
“Nhật ký trong tù” ra tiếng Tày. Lúc đầu tôi phân vân: Nên chọn thể thơ nào để
dịch đây. Các tác phẩm thơ truyền thống
của người Tày chủ yếu là thơ bảy chữ vần lưng. Thể thơ này rất thuận lợi cho
việc hát then theo nhạc đàn tính. Hình thức hát xướng này được đồng bào Tày rất
ngưỡng mộ và trân trọng lưu giữ từ ngàn xưa. Dịch theo thể thất ngôn tứ tuyệt,
thì chỉ phù hợp với giới trí thức Tày mà thôi, bởi vì họ có dịp tiếp xúc với
văn chương bác học. Còn bà con vùng sâu vùng xa, nghe thơ theo thể thất ngôn tứ
tuyệt, thì cảm thấy “Rậm tai” (không thuận tai). Tôi quyết định không dịch thơ
Bác theo thể thất ngôn tứ tuyệt nữa, mà cũng không muốn dịch theo thể thơ bảy
chữ nữa, vì cảm thấy nó mòn cũ…
Nội dung cách mạng trong Nhật ký trong tù là rất mới và rất lạ đối
với văn học Tày. Vì vậy tôi không muốn dùng thể thơ cũ của người Tày để dịch
tác phẩm này. Ý muốn của tôi là: Nội dung mới phải được thể hiện trong thể thơ
mới, thì hay nhất.
Qua khảo sát thực tế ở các
bản làng vùng sâu vùng xa của người Tày, tôi thấy bà con rất thích thể thơ lục
bát của người Kinh. Ngôn ngữ Tày có năm thanh điệu và không đến nỗi thiếu sự
bay bổng lãng mạn về mặt ngữ âm. Tiếng Tày có các dấu: hỏi, sắc, nặng, huyền và
không dấu. So với tiếng Kinh, thì tiếng Tày thiếu mỗi dấu ngã mà thôi. Cuối cùng tôi quyết định dịch
Nhật ký trong tù ra tiếng Tày theo thể thơ lục bát. Vậy là nó đảm bảo tiêu chí
cho bản dịch là vừa mới về nội dung và mới về hình thức biểu hiện (thể thơ lục
bát) đối với người Tày.
Tiếng Việt là tiếng phổ
thông cho toàn thể các dân tộc chung sống trên đất nước Việt Nam thông nhất. Do vậy tôi nghĩ khi
phát hành tập thơ dịch tiếng Tày Nhật ký trong tù, cũng cần phải in phần tiếng
Việt của thơ Bác. Vậy nếu phần thơ tiếng Việt mà vẫn dùng các bản dịch cũ (dẫu
dịch rất hay và rất chuẩn) theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, thì khi đọc sang
tiếng Tày lại theo thể lục bát – quả là tâm hồn cảm thấy một điều gì đó không
liền mạch, hụt hẫng và chơi vơi…
Tôi từng thưởng thức nhiều
bài thơ Việt và bài thơ Tày, nên nhận biết điều đó từ lâu. Tôi không muốn bà
con người Tày vấp phải sự hụt hẫng ấy khi đọc thơ của Bác Hồ vĩ đại. Vậy thì
phải làm sao đây? Thật là nan giải. Dịch lại Nhật ký trong tù từ tiếng Hán ra
tiếng Việt ư? Các bậc tiền bối đã dịch rất chuẩn và rất hay rồi cơ mà.
Song tôi lại nhớ tới lời
dạy của bác Hồ đối với văn nghệ sĩ: Việt cho ai? Viết cái gì? Và viết như thế
nào?
Ồ, thế thì, mục đích của tôi
dịch Nhật ký trong tù, là để phục vụ cho bà con người Tày ở vùng sâu vùng xa cơ
mà. Còn ngại ngần gì nữa. Vậy là tôi dịch Nhật ký trong tù theo thể thơ lục bát
ra tiếng Việt và lục bát tiếng Tày.
Nguyên tắc dịch của tôi là
cố gắng chuyển được CÁI THẦN của bài
thơ sang ngôn ngữ mới, không quá câu nệ vào câu chữ trong nguyên bản.
Thí dụ, lúc đầu tôi dịch “Trăng
nhòm khe cửa, ngắm VẦNG thi nhân”.
Câu này không phù hợp với đức tính khiêm tốn của Bác. Tôi sửa lại “Trăng nhòm khe cửa, ngắm LÒNG
thi nhân”. Trăng là tri kỷ tinh thần của Bác Hồ. Rồi tôi dịch “Trông trời Nam, lại nhớ người bạn xưa”. Dịch thế không
ổn, vì nó không thể hiện được tình cảm sâu xa của Bác đối với Tổ Quốc.. Và tôi
dịch lại như sau “Trông trời Nam THẲM, nhớ người bạn xưa”.
Xin trích dẫn ra đây ba bài
cụ thể Triệu Lam Châu tôi dịch lại theo thể thơ lục bát như sau:
NGẮM TRĂNG
Trong tù không rượu,
không hoa
Đêm nay cảnh đẹp,
hững hờ được chăng
Người chiêm ngưỡng
nguyệt ngoài song
Trăng nhòm khe
cửa, ngắm lòng thi nhân.
NGHE TIẾNG GIÃ GẠO
Gạo đem vào giã
đớn đau
Giã xong rồi, gạo
trắng màu tựa bông
Ở đời, người cũng
vậy chăng
Gian nan, rèn
luyện mới thành ngọc trong.
MỚI RA TÙ, TẬP LEO NÚI
Mây ôm núi, núi ôm
mây
Không mờ chút bụi,
sông đầy sáng tươi
Non Tây bước một
bồi hồi
Trông trời Nam thẳm, nhớ
người bạn xưa.
Tôi dịch Nhật ký trong tù
để tỏ lòng tôn kính của mình đối với Hồ Chủ tịch. Và mong muốn phổ biến đến
đồng bào Tày – Nùng một tác phẩm văn học tuyệt tác, một tinh thần lạc quan cách
mạng của Người cộng sản Hồ Chí Minh.
Tập thơ dịch tiếng Tày Nhật
ký trong tù (Xeéc mai chang rườn xăng) của Hồ Chí Minh, đã được Nhà xuất bản
Văn hoá dân tộc ấn hàng quý 2 năm 2009. Chất lượng bản dịch ra sao, mong bạn
đọc vui lòng đánh giá.
Song đã có những tín hiệu
đón nhận ban đầu thật nồng nhiệt đối với bản dịch tiếng Tày tác phẩm Nhật ký
trong tù. Cụ thể Nhà thơ Tày Dương Sách ở xã Đức Long, Hoà An, Cao Bằng cho
biết: Câu lạc bộ thơ của xã đã tổ chức ngâm một số bài thơ lục bát tiếng Việt
và lục bát tiếng Tày ( trong tập Nhật ký trong tù) trong Đêm thơ xuân truyền
thống của mình dịp đầu xuân năm 2010 vừa qua.
Cô giáo Bế Thị Hồng ở
Trường phổ thông cơ sở Thị Xuân, Đa Thông, Thông Nông, Cao Bằng cho biết: Các
thầy cô giáo nơi đây rất tâm đắc bản dịch tiếng Tày tác phẩm Nhật ký trong tù
của Bác Hồ và đề nghị dịch giả gửi cho Trường nhiều cuốn nữa. Cô giáo Chu Thuý
Cảnh ở Trường phổ thông cơ sở xã Ngũ Lão, Hoà An, Cao Bằng cũng cho biết: Một
số cuốn thơ dịch tiếng Tày Nhật ký trong tù, do dịch giả tặng, Đảng Uỷ các xã
Ngũ Lão, Bình Long, trân trọng đưa vào phòng lưu niệm của xã. Một số cuốn khác,
cô giáo Cảnh chưa kịp chuyển tới bạn bè theo yêu cầu của dịch giả, đã không
cánh mà bay, không tìm lại được. Nhận được tin này từ cô giáo Cảnh, dịch giả
cũng vừa buồn lại vừa vui…
Nhân kỷ niệm 120 ngày sinh
chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, tôi xin có vài lời tâm sự nôm na như vậy, để chúng
ta cùng thấm sâu thêm tầm tư tưởng và hồn thơ lồng lộng của Người.
Kính mong sự đồng cảm của bạn đọc gần xa.
Tuy Hoà, sáng 2 tháng 5 năm 2010
Triệu Lam Châu
TRÍCH MỘT SỐ BẢN DỊCH THƠ CỦA TRIỆU LAM CHÂU
TỪ TẬP NHẬT KÝ TRONG TÙ (HỒ CHÍ MINH)
Bản dịch thơ tiếng việt:
ĐƯỜNG
ĐỜI HIỂM TRỞ
I
Đi
qua khắp núi đèo cao
Ngờ
đâu đường phẳng lao đao khôn cùng
Bình
an, gặp hổ giữa rừng
Gặp
người đường phẳng, bị còng tống giam.
II
Ta là đại biểu Việt Nam
Đến Trung Hoa để hội đàm việc công
Đâu hay sóng gió bão bùng
Phải làm “khách quý” nằm trong lao tù.
III
Thẳng ngay, trong trắng lòng ta
Thế mà lại bị nghi là Hán gian
Từ xưa, xử thế khó khăn
Mà nay, xử thế gian nan hơn nhiều.
Bản dịch thơ tiếng Tày:
T’ÀNG T’ỞI D’AU NẢN
I
Pặt pây khoóp khuổi, khau ghèng
Ngở t’ầư
thúc nản t’àng phjêng lai nò
Pình an, đông lẩc hăn slưa
T’àng phjêng phúng lỉnh, mẻn mừa rườn xăng.
II
Hây, gần tang nả Việt Nam
Thâng Trung Hoa, poóc p’joọm
àn viểc công
Bấu thjên voòng cải lồm luông
Mẻn p’ần “tản bắt” nòn chang chắp gồm.
III
Hây chăn lạo slặt, slâư slăm
Nhoòng lăng mẻn ngở lẻ gần Hác chan
Tẳm t’ầư, hảng tó khỏ fàn
Cứ này hảng tó lai mòn nắc them.
Bản dịch thơ tiếng Việt:
HỌC ĐÁNH CỜ
I
Tù đem cờ học đánh chơi
Thiên binh vạn mã cứ hoài đuổi nhau
Tấn công, thoái thủ thật mau
Ai chân lanh lẹ, tài cao, thắng người.
II
Phải nhìn cho kỹ, rộng dài
Phải kiên quyết, phải liên hồi tấn công
Hai xe bỏ, lúc lạc đường
Gặp thời, một tốt thành công ngay mà.
III
Ngang nhau thế lực hai phe
Mà sau thắng lợi thu về một bên
Tấn công, phòng thủ cho bền
Mang danh đại tướng xứng tên anh hùng.
Bản dịch thơ tiếng Tày:
SLON TỨC CỚ
I
Mẻn xăng, báy cớ tức dồm
Bân binh vản mạ cử lầng t’jẻp căn
Khửn kheng, thân t’jẻo khoái mjàng
Cầư kha khoái nẩư, quai quang, xẹ hình.
II
Mẻn ngòi quảng, cậy
cà rình
Lồng slim khửn bảt mạ, lầng khửn kheng
Sloong xe lôm, p’ửa lông t’àng
Rổp slì, tốt
t’oỏc tó p’ần công đeng.
II
Đú t’ầu sloong bưởng phjêng rèng
Lăng mà lẻ p’ạng đeo cheng ăn hềnh
Dửc hen bấu loắng, khửn kheng
Hất gần pan tưởng tảy ten tảm tài.
Bản dịch thơ tiếng Việt:
NGẮM TRĂNG
Trong tù không rượu, không hoa
Đêm nay cảnh đẹp, hững hờ được chăng
Người chiêm ngưỡng nguyệt ngoài song
Trăng nhòm khe cửa, ngắm lòng thi nhân.
Bản dịch thơ
tiếng Tày:
DỒM HAI
Rườn xăng bấu lẩu, bấu va
D’ưởng đây gẳm nẩy, thúc gò slăm phông
Gần dồm noỏc táng hai lương
Hai ngòi rẻp, pjếm slăm rường slấy sli.
Bản dịch thơ tiếng Việt:
MỚI RA TÙ, TẬP LEO NÚI
Mây ôm núi, núi ôm mây
Không mờ chút bụi, sông đầy sáng tươi
Non Tây bước một bồi hồi
Trông trời Nam thẳm, nhớ người bạn xưa.
Bản dịch thơ
tiếng Tày:
NÁO OÓC RƯỜN XĂNG, SLON PIN
PHJA
Moóc – phja nua nét hốm căn
T’ả cương slâư mửn, nặm ngần rủng quang
Phja Tây, tấng d’ám đắn lầng
Mủng bân Nam lẩc – chứ pằng d’ạu quây.
NÁO OÓC RƯỜN XĂNG, SLON PIN
PHJA
Moóc – phja nua nét hốm căn
T’ả cương slâư mửn, nặm ngần rủng a
Phja Tây, đắn tấng d’ám kha
Mủng bân Nam lẩc – chứ mừa bạn quây.
cũng thú vị phết
Trả lờiXóaCám ơn bạn đã ghé trang và chia sẻ!
Xóa