Thứ Bảy, 11 tháng 7, 2020

TỪ HÁN VIỆT GỐC NHẬT TRONG TIẾNG VIỆT



TỪ HÁN VIỆT GỐC NHẬT TRONG TIẾNG VIỆT –
tiếp nhận văn hoá phương Tây qua ngôn ngữ bắc Á
TRẦN ĐÌNH SỬ
(Bác Trần Đình Sử không để nút chia sẻ, đành copy qua đây để mọi người cùng đọc)

1. Tiếng Việt có một vốn từ Hán Việt rất lớn. Tuy chưa có con số thống kê thật xác định, song các nhà ngôn ngữ học ước lượng số từ đó chiếm khoảng 60-80% tự vựng tiếng Việt, theo con số ngày nay thì chỉ 35,15%. Trong số từ Hán Việt tiếp thu từ nhiều thời điểm, nhiều nguồn, có một loạt từ Hán Việt, tuy tiếp thu chủ yếu qua con đường sách báo Trung Quốc, nhưng lại có nguồn gốc Nhật Bản. Chính người Trung Quốc cũng xem chúng là từ ngoại lai gốc Nhật của Hán ngữ.
Từ Hán Việt gốc Nhật đánh dấu một bước phát triển mới của từ Hán Việt, xuất hiện vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX nhằm tiếp nhận các từ ngữ, thuật ngữ triết học, tư tưởng, khoa học xã hội và khoa học tự nhiên của phương Tây, những linh vực mà văn hoá Đông Á vốn thiếu. Muốn tiếp nhận văn hoá phương Tây thì khâu đầu tiên là phải dịch, dịch thế nào là một khâu không đơn giản. Nó đòi hỏi một ý thức khoa học và tinh thần sáng tạo. Người Nhật tiếp nhận đầu tiên, sau đến người Hoa rồi đến người Việt. Người đi sau thừa hưởng thành quả người đi trước, và thế là chúng ta có từ Hán Việt gốc Nhật. Đó là những từ nào, số lượng bao nhiêu, có đặc điểm gì, đến nay vẫn chưa có tài liệu đề cập đầy đủ. Trong bài viết này, chúng tôi sơ bộ cung cấp vốn từ đó và nêu lên một vài nhận xét bước đầu.
2. Người Trung Quốc trong quá trình tiếp xúc với phương Tây đã có những cuốn từ điển do các cha cố đạo Kito soạn để dịch các từ ngữ phương Tây ra tiếng Hán, ví như tự điển Anh Hoa năm 1815, tuy nhiên, phải đến thời kì cận đại do nhu cầu học tập văn minh phương Tây thì hoạt động dịch thuật mới gia tăng khác thường. Trong lĩnh vực này người Nhật là một bậc tiên phong. Theo tài liệu của Kế Thu Phong và Chu Khánh Bảo trong sách Lịch sử cận đại Trung Quốc, quyển 1 cho biết thì lưu học sinh Trung Quốc ở Nhật đến năm 1906 đã có 13.000 người. Sách và bài báo dịch từ Nhật sang tiếng Trung trong khoảng 1902 – 1904 có 573 đơn vị chiếm 62,2% trong tổng số tài liệu dịch nước ngoài thời gian ấy, dịch từ Anh chỉ 10, 7%, dịch từ Mĩ chỉ 6,1%. Một ví dụ đó cũng có thể suy ra ảnh hưởng của Nhật đối với Trung Quốc cận đại to lớn biết chừng nào. Tình hình đó làm cho từ ngữ hiện đại trong tiếng Nhật được tiếp thu hàng loạt. Theo các nhà nghiên cứu Trung Quốc cho biết, các từ ngữ, thuật ngữ khoa học xã hội và nhân văn Trung Quốc hiện đại có tới 70% nhập từ tiếng Nhật (Xem Vương Bân Bân: Mối quan hệ giữa từ vựng Trung Quốc cận đại với Nhật Bản). Tác giả Vương Bân Bân nói: “Ngày nay hàng loạt khái niệm mà người Trung Quốc dùng để cao đàm khoát luận, bàn đông nói tây, phần lớn là từ ngữ do người Nhật làm ra cả.” Lúc đầu người Trung Quốc, qua Nghiêm Phục, thường dịch theo lối phiên âm theo kiểu Lư Thoa, Mạnh đức tư cưu, Nã Phá Luân. Ví dụ, Rhetorique thì dịch là “Lôi thoả loại khắc”, romantism thì dịch là “la mạn thế khắc”, inspiration dịch là “yên sĩ phi lí thuần”, telephone dịch là “đức luật phong”, club dịch là “câu lạc bộ”, cholera dịch là “hổ liệt la”... Một cách dịch khác là dịch nghĩa, ví dụ, individual dịch là “cá nhân độc nhất giả”, “các thù chi nhân thân”, “tư nhân”, “độc nhất nhân”, sau mới dịch là cá nhân; indidualism sau mới dịch là chủ nghĩa cá nhân; social dịch là “quần”, sociologie dịch là “quần học”, economie dịch là “lí tài”, evolution dịch là “thiên diễn”, capital dịch là “mẫu tài”, philosophie dịch là “học lí”, metaphysique dịch là “huyền học”...Vương Bân Bân nhận xét, “cùng một từ mà người Trung Quốc dịch phần lớn đều thất bại, còn người Nhật dịch thì thành công.” Sau năm 1917 người Nhật Tá Tá Chính Nhất dịch inspiration là “linh cảm”, thế là người Trung Quốc dùng theo. Cũng vậy Trung Quốc vốn không có từ thần thoại. Người Nhật dịch myth thành “thần thoại”, năm 1903 người Trung Quốc là Tưởng Quan Vân mang về, thế là Trung Quốc có từ thần thoại từ năm ấy. Đặc biệt, đuôi “ism” người Nhật dịch thành “chủ nghĩa”, tức là lấy một “nghĩa” nào đấy làm chủ, thế là tạo thuận lợi lớn cho chúng ta ngày nay dịch các từ tương tự. Cái khó ở đây là không phải phiên âm, không phải giải thích, mà là chuyển từ từ tiếng Tây sang một từ mới trong tiếng Nhật. Người Nhật có sáng kiến dùng yếu tố Hán để cấu tạo từ mới. Do dùng yếu tố Hán cho nên người Hán dùng được mà người Việt cũng dùng được. Đồng thời họ cũng thể hiện những nguyên tắc để người ta có thể dựa theo đó mà cấu tạo nhưng từ mới khác.






Dựa vào Từ điển từ ngoại lai tiếng Hán do các tác giả Lưu Chính Đàm, Cao Danh Khải, Mạch Vĩnh Càn, Sử Hữu Vi biên soạn từ năm 1958, hoàn thành năm 1978, xuất bản năm 1984 tại Nxb. Từ Thư, Thượng Hải, chúng tôi xác định có trên 350 từ gốc Nhật ngày nay vẫn được sử dụng trong tiếng Việt. Chúng tôi sơ bộ phân loại theo các lĩnh vực đời sống để thấy vị trí của chúng. Các từ sẽ được sắp xếp theo thứ tự A, B, C...
a. Các từ xã hội, chính trị, quân sự:
biên chế, biểu quyết, bình giá, bối cảnh, bồi thẩm viên, cách mạng, cán bộ, cán sự, cảnh sát, cao trào, cao xạ pháo, câu lạc bộ, chi bộ, chỉ đạo, chỉ thị, chiến tuyến, chính đảng, chính sách, chính phủ, chủ nghĩa, công dân, công nhận, công tố, cộng hòa, cộng sản chủ nghĩa, cơ quan, cơ đốc, cơ đốc giáo, cương lĩnh, dân chủ, đại bản doanh, đại biểu, đại cục, đàm phán, đảng
đặc quyền, đặc vụ, đăng kí, đề kháng, độc chiếm, độc tài, đồng tình, động cơ, động viên, đơn vị, giai cấp, giải phóng, giải quyết, giám định , giao thông, hàng không mẫu hạm, hiến binh, hiến pháp, hiệp định, hiệp hội, hiệu quả, hội đàm, kế hoạch
kháng nghị, kỉ luật, kĩ sư, kiên trì, kinh tế, lãnh thổ, lao động, lập hiến, lập trường, lý tưởng, mục đích, mục tiêu, ,nguyên soái, nguyên tắc, nghị quyết,
nghị viện, nghĩa vụ, nhân quyền, nhân văn chủ nghĩa, nội các,
phán quyết, phản bội, phản động, pháp luật, phần tử, phong kiến, phục vụ, phương châm, quan điểm, quan hệ, quân nhu,
quy phạm, quốc giáo, quốc lập, quốc tế, quốc thể, quyền hạn, quyền uy, sĩ quan, tập đoàn, tập kết, tập trung, tổ chức, thành viên, thẩm phán, thẩm vấn, thế kỉ, thi công, thi hành, thị trưởng, thiếu tướng, thiếu úy, thống kê, thời sự, thủ tiêu, thủ tục, thừa nhận, thực nghiệp, thực quyền, tiền tuyến, tiến triển, tình báo, tổ chức, tôn giáo, tổng động viên, tổng lãnh sự, tư bản,tư sản ,chủ nghĩa, trọng điểm, trọng tài, trung tướng, tùy viên, tư bản, tự do, tuyên chiến, tuyên truyền, tuyển cử, tư pháp, xã giao, xã hội, xã hội chủ nghĩa, xâm lược, xâm phạm, xuất phát điểm, vô sản,
b. Các từ thương nghiệp, kinh tế:
bảo hiểm, bất động sản, cố định, công nghiệp, công trái, dự toán, đầu cơ, đầu tư, điện báo, điện thoại, điện tử, động sản, kim ngạch, kinh doanh, ngân hàng, nhập khẩu, nhập siêu, phân phối, quảng cáo, quốc khố, tài vụ, tài phiệt, thanh toán, thị trường, thủ công nghiệp, thương nghiệp, tiêu phí, tín dụng, tối huệ quốc, xuất khẩu, xuất siêu
c. Các từ triết học
tâm lý học, ám thị, ấn tượng, bản chất, bi quan, biện chứng pháp, biểu tượng, cảm tính, chất lượng, chủ động, chủ quan , chủ thể, cơ chất, cụ thể, dị vật, diễn dịch,đạo đức, định nghĩa, đơn thuần, giả định, gián tiếp, giản đơn, giao tế, hiện thực, hiện tượng, hình nhi thượng, hoàn cảnh, hư vô chủ nghĩa, khách quan, khách thể, khái niệm, khái quát, khẳng định, khí chất, không gian, kí hiệu, kinh nghiệm, lí luận, lí tính, lí trí, luận chiến, mệnh đề, năng động, năng lực, nội dung, nội tại, ngẫu nhiên, ngoại tại, nguyên động lực, nguyên lý, nguyên tắc, nguyên tố, phạm trù, pháp tắc, phân giải, phân tích, phủ định, phủ nhận, phương thức, quá độ, quan niệm, quy nạp,tự nhiên, tất nhiên, tất yếu,
thẩm mĩ, thế giới quan, thoái hóa, thời gian, tích cực, tiền đề, tiến hóa, tiến hóa luận, tiêu cực, tín hiệu, tinh thần, tính năng, tổng hợp, tuyệt đối, tư tưởng, tự hào, tương đối, tưởng tượng, triết học, trực giác, trực quan, trực tiếp, trừu tượng, vật chất, xí nghiệp, ý thức, yếu tố,
d. Các từ khoa học, giáo dục:
âm cực, bác sĩ, bạch kim, bán kính, bão hòa, bức xạ, chân không, chỉ số, cơ giới, di truyền, diễn tập, dinh dưỡng, dương cực, địa chất, địa chất học, điện khí, động lực học, động mạch, đức dục, giả định, giải phẫu, giáo dục học, giáo khoa thư, hệ thống, hóa học, hóa thạch, học hội, học vị, huyết sắc tố, khoa học, khoa mục, khóa trình, khuếch tán, kích thích, kim cương, kiến tập, lí luận, loại hình, luân lý học, luận lý học, lũy tiến, lực học, lượng tử, mẫn cảm, nghiệp vụ, nguyên tử, ngữ nguyên học, nhân cách, ôn độ, phản ứng, phản xạ, phát minh, phê bình, phóng xạ, phương án, phương trình, quan trắc, quang tuyến, sinh lý học, số học, tâm lý học, tế bào, thám hiểm, thành phần, ,hăng hoa, thần kinh, thần kinh giao cảm, thể dục, thể thao, thôi miên, thường thức, tỉ trọng, tiêu bản, tiêu hóa, tĩnh mạch, tổ hợp, tốc độ, truyền nhiễm, trường hợp, vận động, vật lí, vệ sinh,xã hội, xã hội học, y học, ý nghĩa,.
e. Các từ về văn hóa nghệ thuật:
bi kịch, ca kịch, cải biên, chế bản, chủ bút, diễn tấu, diễn thuyết, diễn xuất, đạo cụ, đăng tải, đồ án, giao hưởng, hội thoại, kí giả, kí lục, kị sĩ, kịch trường, kiến trúc, mạn đàm, mĩ cảm, mĩ hóa, mĩ thuật, mĩ học, nghệ thuật, nguyên tác, quảng trường, sáng tác, tác giả, tác phẩm, tạp chí, tân văn, tu từ học, tham quan,thần thoại, tọa đàm, tốc kí, triển lãm, tư liệu, văn hóa , văn học, văn học khái luận,văn học sử, văn minh, vũ đài, xuất bản.
Các từ ngữ trên đã cho chúng ta tiếp xúc với hệ thống tri thức nhiều mặt của thế giới phương Tây. Nếu thiếu chúng thì không thể tưởng tượng làm thế nào để chúng ta chiếm lĩnh được các tri thức ấy và làm thế nào để hội nhập với thế giới hiện đại.
Qua ,các bảng trên đây có thể thấy rõ các từ ngữ về xã hội, chính trị, khoa học, triết học, giáo dục chiếm một số lượng rất lớn, đánh dấu sự trưởng thành của ý thức xã hội về các mặt ấy. Để thấy sự tiếp nhận này chúng ta có thể so sánh với Đại Nam quốc âm tự vị của Huình Tịnh Của thì sẽ thấy nhiều từ trên đây không có mặt, hoặc nếu có thì dùng theo nghĩa cổ xưa. Ví dụ không có các từ như mĩ thuật, mĩ học, nghệ thuật, triết học, văn hoá, văn minh, kinh tế. Hán Việt tự điển của Đào Duy Anh đã có nhiều từ vựng hơn, song về nghĩa cũng còn rất nhiều chữ giải thích theo nghĩa cũ. Tuy nhiên chúng tôi xin phép chưa đi sâu vào phương diện này.
3. Số từ Hán Việt gốc Nhật trên đây được tiếp nhận từ từ Hán gốc Nhật trong một thời gian dài. Có những từ tiếp nhận từ đầu thế kỷ như cách mạng, thực nghiệp, tự do, tiến hóa... Các từ giai cấp, lập trường, vô sản... tiếp nhận từ những năm hai mươi, các từ khoa học, giáo dục thì muộn hơn. Có từ như chế bản, kí hiệu học thì chắc là du nhập gần đây.
4. Không phải mọi từ Hán gốc Nhật đều được người Việt vay mượn để chuyển thành từ Hán Việt gốc Nhật. Ví dụ, từ Hán gốc Nhật “nhân lực xa”, do tiếng Việt có từ “xe tay”, “xe kéo” cho nên không vay mượn nữa. Từ Hán gốc Nhật có bi kịch, hỉ kịch, lãnh thổ, lãnh không, lãnh hải.... nhưng tiếng Việt chỉ vay mượn bộ phận và sáng tạo thêm theo cách của mình. Ví dụ, người Việt chỉ mượn từ “bi kịch”, còn “hỉ kịch” thì gọi là hài kịch, thích hợp hơn là hỉ kịch, vì hài kịch không đơn giản là kịch vui. Người Việt chỉ dùng từ lãnh thổ, còn “lãnh hải”, “lãnh không” thì trước đây gọi là “hải phận”, “không phận”, nay gọi là “vùng biển", "vùng trời”. Số lượng từ Hán gốc Nhật không được sử dụng còn khá nhiều. Ví dụ tiếng Việt nói thất tình (không dùng “thất luyến”), sản xuất (không dùng “sinh sản”, sinh sản mang nghĩa khác), nhân viên (không nói “sự vụ viên”, thư viện (không dùng “đồ thư quán”) v.v. chứng tỏ tiếng Việt có cách lựa chọn riêng.
5. Các từ Hán Việt gốc Nhật có hai loại chủ yếu sau:
a. Một loại gồm các từ do người Nhật sử dụng yếu tố Hán để tạo ra từ của mình nhằm phiên dịch, diễn đạt các khái niệm mới về khoa học, giáo dục, chính trị, xã hội như các từ chính đảng, giai cấp, tuyên truyền, công dân, dân chủ, xã hội chủ nghĩa, hư vô chủ nghĩa, tế bào, chân không... Loại này đều mang một hàm nghĩa hiện đại xác định, không gây nhầm lẫn, hiểu lầm nào.
b. Loại thứ hai gồm các từ người Nhật vay mượn từ của Trung Quốc từ nguồn thư tịch cổ rồi phú cho nó một ý nghĩa mới như văn minh, văn hóa, cách mạng, văn học, tưởng tượng, tinh thần, pháp luật, phân tích, phân phối, phép tắc... Những từ này đối với người Trung Quốc, cũng như đối với người Việt Nam, chúng vừa quen lại vừa lạ, và do đó nhiều khi không nhận ra cái nghĩa ngoại nhập mới mẻ của nó.
Ví dụ hai chữ “cách mạng”, trong Kinh Dịch có câu: “Thiên địa cách nhi tứ thời thành, Thang Vũ cách mạng, thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân - Trời đất đổi thay mà thành bốn mùa, Thang Vũ đổi thay mệnh thuận theo trời mà ứng theo người”. Nhưng “cách mạng” trong ý nghĩa hiện đại hoàn toàn khác: đó là một cuộc đổi thay lớn, trọng đại trong công cuộc cải tạo xã hội và thiên nhiên, một cuộc nhảy vọt từ chất cũ sang chất mới, chứ không phải đổi thay thông thường, như mùa này thay mùa kia. Đây là từ người Nhật dùng để dịch ý từ tiếng Anh revolution.
Lại ví dụ từ “văn hóa” trong tiếng Hán cổ chỉ “văn tự, giáo hóa”. Người Nhật dùng từ này để dịch ý từ tiếng Anh culture tức là chỉ toàn bộ các giá trị tinh thần và vật chất mà con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử của mình. Ông Đặng Thai Mai đã nói về cảm nhận quen mà lạ đối với từ này như sau: “Danh từ “văn hóa” chúng ta đã mượn ở tiếng Tàu-người Tàu lấy hai chữ này ở sách cổ-bộ Kinh Dịch để phô diễn một khái niệm mới của khoa học hiện đại... Vậy muốn có ý niệm xác đáng, ta phải công nhận cho chữ “văn hóa” hiện thời một nghĩa mới, nguồn gốc tự Tây phương”(1). Ông không nghĩ rằng đây là một từ dịch từ tiếng Tây..
Từ “văn học” lại càng thú vị. Đây là từ người Nhật dùng để dịch từ tiếng Anh literature, với hàm nghĩa là chỉ các tác phẩm dùng ngôn ngữ, văn tự làm công cụ để biểu hiện một cách hình tượng đời sống con người, bao gồm thơ ca, tiểu thuyết, tản văn, kịch, kí. Trong Luận ngữ có câu: “Văn học, Tử Du Tử Hạ” thì văn học được dùng với nghĩa là học vấn uyên bác, biết nhiều về văn hiến, không dính dáng gì với ý nghĩa hiện đại. Theo một số tài liệu khảo chứng cho biết, năm Minh Trị thứ 16, tức năm 1883 Trung Giang Triệu Dân dịch cuốn Duy Thị mĩ học, lần đầu tiên đem từ Esthetique dịch thành mĩ học, năm 1884, dịch từ Rhetorique thành tu từ học, năm 1886 lại dịch từ literature thành văn học. Lương Khải Siêu từng ở Nhật, hấp thu từ “văn học” của Nhật, cho nên trong trước tác của ông hai chữ “văn học” khi thì chỉ học vấn, khi thì chỉ văn học bao gồm tiểu thuyết và kịch, một ý nghĩa mà người Trung Quốc xưa không bao giờ nghĩ đến. Nhà nghiên cứu Nhật Tá Đằng Nhất Lang cho rằng đó là do ảnh hưởng của Nhật(2).
Ở Việt Nam có lẽ ông Võ Liêm Sơn là người sớm nhất nhận ra cái nghĩa mới của từ đó. Năm 1927, ông viết: “Danh từ văn học bây giờ người Tàu, người Nhật chỉ dùng theo nghĩa mới, nghĩa hẹp, cũng như hai chữ mỹ văn (belles lettres), nhưng là thứ văn có tình cảm, mĩ cảm, thuộc về phạm vi nghệ thuật chứ không gồm cả bao nhiêu văn tự kĩ thuật khác, nó thuộc về phạm vi khoa học”(3) và các tác giả đương thời sử dụng hai chữ này theo nghĩa mới một cách tự nhiên. Ví dụ Phạm Quỳnh viết Văn học nước Pháp (1921). Phan Khôi viết Tục ngữ, phong dao và địa vị của nó trong văn học (1939). Nguyễn Thị Kiêm viết Nữ lưu với văn học (1932). Các tập văn học sử của các tác giả đương thời như Nguyễn Đổng Chi, Dương Quảng Hàm… đều dùng hai từ “văn học”. Ông Đặng Thai Mai cũng viết: “Dưới ảnh hưởng của tư triều Âu, Mĩ, hai chữ văn học ngày nay đã bao hàm một ý nghĩa khác hẳn nghĩa đen ngày xưa của nó”(4).
Loại từ thứ hai này chỉ là một lối vay mượn từ có sẵn từ xưa để dịch nghĩa một từ mới của các nước, đó là một ước lệ, thiết nghĩ nên hiểu theo nghĩa mới đó trong dòng chảy của từ vựng.
Từ Hán Việt gốc Nhật là một phạm vi từ rất đặc biệt. Nó phản ánh các mối quan hệ văn hóa đặc thù của các nước châu Á trong tư triều Âu Mĩ hiện đại. Nhật chịu ảnh hưởng văn hóa Hán và đã tác động trở lại tiếng Hán. Người Việt qua sách vở Trung Quốc mà tiếp thu từ mới của Nhật và qua đó mà tiếp thu văn hóa phương Tây.
Việc xác lập các từ có nguồn gốc Nhật sẽ góp phần để xác lập các từ Hán Việt gốc Việt, do người Việt sáng tạo ra. Nhưng đó sẽ là một vấn đề khác.
CHÚ THÍCH
(1). Đặng Thai Mai, Nguyễn Hữu Đang: Định nghĩa hai chữ văn hóa / Tuyển tập phê bình, nghiên cứu văn học Việt Nam (1900-1945), T.5, H. Văn học, 1997, tr.327.
(2). Tá Đằng Nhất Lang: Trung Quốc văn chương luận, Thượng Hải cổ tịch, 1996, tr.250.
(3). Võ Liêm Sơn, Văn học và xã hội/ Thơ văn Võ Liêm Sơn, Hội Văn nghệ Nghệ Tĩnh, Vinh, 1993, tr.135.
(4). Văn học khái luận, 1944/ Tuyển tập phê bình nghiên cứu văn học 1900-1945, T.5, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1997, tr.288.
5. Lưu Chính Đàm, Cao Danh Khải, Mạch Vĩnh Càn, Sử Hữu Vi biên soạn, Hán ngữ ngoại lai từ từ điển, Thượng Hải từ thư xuất bản xã, 1984, 423 tr.
(Đã đăng Tạp chí Hán Nôm, số 2 năm 1999.)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét