AI ĐÃ SÁNG TẠO RA THƠ LỤC BÁT?
THUẬN NGHĨA
Đã là người Việt Nam thì trong đời mình ai cũng đã từng nghe, từng đọc, thậm chí từng thuộc vài ba câu Lục Bát. Và có thể ai cũng đã từng là tác giả của một bài lục nào đó. Lục bát có trong lời ru của Mẹ, trong Ca Dao, có trong sấm ký, và có trong kho tàng Thi ca của nước Việt. Từ những câu nói có vần, đến những điều hò điệu lý, câu hát giao duyên cho đến những tác phẩm văn học đồ sộ như Truyện Kiều (Nguyễn Du), Chinh Phụ Ngâm (Đoàn Thị Điểm), Ngư Tiều Vấn Đáp Y Thuật (Nguyễn Đình Chiểu)..., và kể trong những ý chỉ truyền thừa của đạo giáo, gia phả hay là y thuật cũng đều có sự đóng góp của Lục bát.
Ngày xưa Lục bát không được truyền dạy trong học đường, và không có trong khoa cử. Đến Truyện Kiều của Nguyễn Du, và sau này đến Tản Đà thì Lục bát mới thật sự được công nhận là một thể thơ đặc biệt, riêng biệt và rất đặc biệt của Việt nam. Từ đó mới hình thành niêm luật bằng trắc qui định cho thể thơ này.
Không ai có thể khẳng định Lục bát có từ khi nào, nhưng có một điều chắc chắn mà ai cũng biết và công nhận là Lục bát có xuất xứ từ Ca Dao. Mà Ca Dao thì có từ thủa hồng hoang dựng nước. Ca Dao có từ thời vua Hùng, và có thể có từ trước đó nữa, từ buổi sơ khai của nền văn hóa lúa nước.
Ngày nay thể thơ Lục bát đã không những trở thành thể thơ truyền thống đặc thù cho thi ca cổ truyền, mà nó đã trở thành một thể thơ giàu cảm xúc, trữ tình và có sức truyền cảm cao trong trào lưu thi ca hiện đại. Từ Tản Đà, cho đến Nguyễn Bính, Bùi Giáng, Đồng Đức Bốn, Nguyễn Trọng Tạo...và một số cây bút trẻ sau này nữa, Lục bát đã trở thành những tác phẩm mang phong cách hiện đại, là những tác phẩm 'đóng đinh' trong sự nghiệp văn chương của họ.
Lục bát chiếm một vị trí đầy đặn như vậy trong kho tàng văn hóa Việt, nhưng chúng ta vẫn chưa biết nó có tự khi nào. Bởi vì Lục bát có xuất xứ từ Ca dao, mà Ca dao thuộc về văn hóa truyền miệng, từ đời này truyền sang đời khác và tồn tại trong dân gian từ đời thượng cổ đến giờ.
Bài Lục bát nào hay nói cách khác câu Ca dao nào, bản dân ca nào được ký tự đầu tiên trong lịch sử văn hóa Việt. Đó là câu hỏi chúng ta nên tìm câu giải đáp.
Anh Đỗ Thanh, bút hiệu Nhạn Nam Phi (Con Nhạn Bay Về Phương Nam), hiện ở Mỹ, là một nhà nghiên cứu cổ học. Trong công trình nghiên cứu của anh về Cổ Ngữ, để vén tấm bụi mờ của Lịch sử, chứng minh chữ Hán có nguồn gốc từ chữ Nôm. Minh chứng cho một sự thật của Lịch sử đã bị thời gian khuất lấp, hay đã bị những thế lực chính trị từ trung cổ cho đến cận đại cố tình che đậy.
Đã có những công trình khảo cứu đầy sức thuyết phục, chứng minh rằng Hà Đồ Lạc Thư cốt lõi nguyên lý để hình thành nên Kinh Dịch có xuất xứ từ cái nôi văn hóa lúa nước là đất Phong Châu của Việt Tộc.
Và ngay cả vua Văn Vương nhà Chu theo truyền thuyết là người sáng tạo ra Kinh Dịch cũng là học trò của một người Sở lấy họ Hùng, hậu duệ của Vua Hùng đất Phong Châu.( Đỗ Thanh Nhạn Nam Phi: Chữ Nôm có trước Chữ Hán)
Gần đây Đỗ Thanh Nhạn Nam Phi dựa vào cách ký tự trong sách Thuyết Văn, đã dùng chữ Nôm để phục nguyên lại những văn bản ký tự cổ viết theo cốt giáp tự, tượng hình.. Những văn bản cổ tự này dùng tiếng Hán cổ, hay tiếng Trung Hoa hiện đại đều không thể đọc và lý giải được, nhưng dùng chữ Nôm để chiết giải thì đọc được một cách rất dễ dàng. Trong đó có hai bản ký tự cổ nhất là bản Việt Nhân Ca (Khúc Ca Của Người Việt )và bản Duy Giáp Lệnh là hai bản cổ xưa nhất còn giử được nguyên vẹn.
Bản Việt Nhân Ca có niên đại 2800 năm, bản Duy Giáp Lệnh có niên đại 2500 năm.
Giới nghiên cứu ngôn ngữ học Trung Hoa, khi đọc và lý giải hai bản ký tự này bằng Hán Ngữ và Hoa Ngữ, đều gặp rất nhiều khó khăn. Cho nên lúc giải dịch có nhiều ý khác nhau, không thống nhất. Nhưng khi dùng chữ Nôm của các tộc Bách Việt để chiết tự, thì không gặp mấy khó khăn. Đã có nhiều công trình nghiên cứu được trình bày trong các tạp chí Hoa Ngữ, nhưng vì vấn đề nhạy cảm người Trung Hoa không chấp nhận vấn đề được đặt ra là chữ Hán có nguồn gốc từ chữ Nôm, nên các công trình này bị ém nhẹm.
Đỗ Thanh Nhạn Nam Phi là người gốc Triều Châu, tổ tiên vốn xuất xứ từ đất Phong Châu, anh không thể chấp nhận Lịch sử bị khuất lấp bằng những lớp bụi mờ thế cuộc, đã tận tâm phục nguyên lại Duy Giáp Lệnh và Việt Nhân Ca theo nguyên bản bằng cách ký tự tiếng Nôm. Việc truy nguyên Duy Giáp Lệnh và Việt Nhân Ca bằng tiếng Nôm một cách quá đơn giản và rõ ràng đã chứng minh hùng hồn là chữ Hán cổ và Tiếng Hoa (quan thoại) bây giờ có nguồn gốc xuất xứ từ chữ Nôm. Có nghĩa là chữ Nôm hiển nhiên có trước chũ Hán rất xa. (Đỗ Thanh Nhạn Nam Phi: Chữ Nôm Có Trước Chữ Hán)
Trong khi phục nguyên lại Việt Nhân Ca, anh đã phát hiện ra Việt Nhân Ca được ký tự bằng thể thơ 6/8 và có niêm luật bằng trắc như lục bát trong Ca dao Việt Nam, và thơ Lục bát thời cận đại. Có lẽ Việt Nhân Ca, khúc dân ca của Việt Tộc đầu tiên được ghi lại bằng chữ viết. Và đó cũng chính là 'thủy tổ' của thơ Lục bát.
Để các bạn có thêm căn cứ với mệnh đề này, xin mời các bạn tham khảo thêm vấn đề cốt lõi trong việc phục nguyên Việt Nhân Ca của Đỗ Thanh Nhạn Nam Phi
Theo tư liệu thì xuất xứ của Việt Nhân Ca như sau: Lưu Hướng (刘向) là cháu bốn đời của Lưu Giao (刘交). Lưu Giao là em của Lưu Bang (刘邦) cao tổ của nhà Hán. Lưu Hướng là tác giả của sách Thuyết uyển (说苑). Sách có chương kể chuyện 'Tương Thành Quân Thủy phong chi nhật' (襄 成君始封之日). Tương Thành Quân là Sở Tương Vương (楚襄王) tên hiệu là Hùng Hoành (熊橫). Trong câu chuyện có nhắc đến Ngạc Quân Tử Tích (鄂君子皙) là vua Sở Hùng Ngạc (楚熊咢) dùng thuyền dạo mát ngoạn cảnh thì có người chèo thuyền hát bài dân ca Việt. Ngạc Quân Tử Tích nhờ người ghi lại và phiên dịch ra tiếng 'Sở' là bài 'Việt Nhân Ca'. Nguyên văn đoạn đó như sau:
' 襄成君始封之日,衣翠衣,带玉剑,履缟舄(舄:xi4, 古代一种双层底加有木垫的鞋;缟舄:白色细生绢做的鞋), 立于游水之上,大夫拥钟锤(钟锤: 敲击乐鼓的锤子),县令执桴(桴:鼓槌)号令,呼:' 谁能渡王者于是也?'楚大夫庄辛,过而说之,遂造托(造托: 上前求见)而拜谒,起立曰: '臣愿把君之手,其可乎?'襄 成君忿然作色而不言。庄辛迁延(迁延:退却貌)沓手(沓:盥之误 字,盥手即洗手)而称曰:' 君独不闻夫鄂君子皙之泛舟于新波之中也?乘青翰之舟(青翰: 舟名,刻成鸟形的黑色的船),极(:man2,上艹下两; 芘:bi4。芘:不详为何物,疑为船上帐幔之类),张翠盖而检 (检:插上)犀尾,班(班,同'斑')丽袿(袿:gui1, 衣服后襟,指上衣)衽(衽:ren4,下裳),会钟鼓之音, 毕榜枻(榜:船;枻,yi4,桨。 榜枻:这里指代船工)越人拥楫而歌,歌 辞曰:‘滥兮抃草滥予,昌枑泽予昌州州,饣甚州州焉乎秦胥胥, 缦予乎昭,澶秦踰渗,惿随河湖。'鄂君子皙曰:‘吾不知越歌, 子试为我楚说之。'于是乃召越 译,乃楚说之曰:‘今 夕何夕兮,搴中洲流。今日何日兮,得与王子同舟。蒙羞被好兮, 不訾诟耻。心几顽而不绝兮,知得王子。山有木兮木有枝, 心说君兮君不知。' 于 是鄂君子皙乃揄修袂,行而拥之,举绣被而覆之。鄂君子皙,亲 楚王母弟也。官为令尹,爵为执圭,一榜枻越人犹得交欢尽意焉。 今君何以踰于鄂君子皙,臣何以独不若榜枻之人,愿把君之手, 其不可何也?'襄成君乃奉手而进 之,曰:'吾少之时,亦尝以色称于长者矣。未尝过僇(僇: lu4,羞辱)如此之卒也。自今以后,愿以壮少之礼谨 命。'
Dịch nghĩa:
'Ngày đầu tiên Tương Thành Quân được phong quan tước, mặc áo đẹp, đeo kiếm ngọc, mang cao guốc, đứng phía trên dòng nước, đại phu gõ nhạc, đánh trống. Lệnh rằng: 'Ai có thể đưa bổn vương lên đò?' Sở đại phu Trang Tân bước lên phía trước bái kiến, đứng thẳng nói rằng: 'Thần nguyện nắm tay của quân vương, có được không ?' Tương Thành Vương phẫn nộ, mặt biến sắc và im lặng. Trang Tân mất mặt, phủi tay nói rằng: ' Quân vương không nghe qua chuyện Ngạc Quân Tử Tích dạo thuyền trên làn sóng mới sao? Trên thuyền Thanh Hàn, cắm cờ xí, khoác áo choàng đẹp. Trong tiếng chuông trống, người chèo thuyền là người Việt đã hát. Lời hát là 'Lạm hề biện thảo biện dư, xương Hoàn trạch dư xương châu châu, Thực thẩm châu châu yên hô tần tư tư, mạn dư hô chiêu, thẳn tần du sâm, đề tùy hà hồ .' Ngạc Quân Tử nói: ' Ta không hiểu Việt ca, thử cho ta hiểu bằng tiếng Sở.' Thế là cho người phiên dịch, bằng tiếng Sở nghiã là: 'Kim tịch hà tịch hề, khiên trung châu lưu, kim nhật hà nhật hề, đắc dĩ vương tử đồng Chu. mông tu bị hảo hề, bất hiềm cấu sĩ. tâm kỷ phiền nhi bất tuyệt hề, tri đắc vương tử. Sơn hửu mục hề mục hửu chi, tâm thuyết quân hề quân bất tri.' 'Nghe xong, Ngạc Quân Tử Tích xăn tay áo, đến ôm lấy, dùng mền thêu mà đắp lên. Ngạc Quân Tử Tích là em cùng mẹ với Sở vương, làm quan Lịnh-Doãn, tước vị cao sang, mà còn có thể cùng vui tận hết ý với người chèo thuyền Việt. Nay sao quân vương lại do dự hơn Ngạc Quân Tử Tích, thần tại sao không bằng người chèo thuyền, muốn nắm tay quân vương, tại sao lại không được ?' Tương Thành Quân đưa tay ra bước tới, nói: 'ta từ nhỏ đã được người lớn khen đàng hoàng, chưa từng bất ngờ gập qua cảnh nầy. Từ nay về sau xin nghe lời chỉ dạy của tiên sinh.' (Đỗ Thanh Nhạn Nam Phi: Phục Nguyên Việt Nhân Ca)
Chính nhờ đoạn văn này mà khúc ca của người Việt được ký tự lại như bây giờ.
Trải qua hàng ngàn năm Việt Nhân Ca được sao chép lại bằng Hán tự, và ngày nay đã được một số học giả dịch ra tiếng Việt, trong đó có bản dịch từ trên Diễn Đàn của Viện Việt Học là chuẫn nhất theo bản Hán Tự:
Đêm nay đêm nào chừ, chèo thuyền giữa sông
Ngày này ngày nào chừ, cùng vương tử xuôi dòng.
Thẹn được chàng mến yêu chừ, nào chê phận thiếp long đong
Lòng rối ren mà chẳng dứt chừ, được gặp chàng vương tông
Non có cây chừ, cây có cành chừ; lòng yêu chàng chừ, chàng biết không?
Nhưng theo cổ sử thì nguyên bản của Việt Nhân Ca lại được viết bằng tiếng Sở, mà tiếng Sở là không phải tiếng Hoa. Vậy thì bản dịch Việt Ngữ trên không phải dịch từ nguyên bản. Vậy đâu là nguyên bản của Việt Nhân Ca?
(Các bạn lưu ý: Theo sử cũ thì Lịnh Doãn nước Sở là Ngạc Quân Tử Tích sau khi nghe bài hát của người Việt rồi nhờ người phiên dịch ra tiếng Sở. Nước Sở quá rộng lớn nên Bắc Sở thường tự xưng là Kinh Sở và Nam Sở tự xưng là Tương Sở hay Tượng Sở. Trong lịch sử xưa có khi Nam Sở tách ra độc lập là nước Dương Việt. Nếu ngược thời Xuân thu đi về xa nữa, thì tận xa xưa có 'lịnh doãn' của nước Sở là Tử Văn vào triều đình nhà Chu nói chuyện bằng tiếng Sở mà nhà Chu xưng là Hoa lại không ai hiểu... Điều nầy được ghi nhận trong Sử ký. Xin quí vị xét kỹ yếu tố câu chuyện nầy mà đừng lầm rằng tiếng Sở là tiếng Hoa. Ngay cả 'lịnh-doãn' nước Sở nghĩa là gì thì người Hoa cũng không biết, nên chỉ ghi chú: quan 'lịnh-doãn' là chức quan tương đương với 'tể tướng' hay gọi là 'thừa tướng'. Thực ra lịnh-doãn (令尹) là từ đa âm cổ: quan lịnh-doãn hay quan 'loãn' là quan loan là quan lang chỉ có trong tiếng Việt và người Việt mới hiểu. Quan chức người Việt thời Hùng Vương được gọi là quan lang là 'loan', khi ký âm bằng chữ vuông thì biến thành lịnh - doãn (令尹). Thời Xuân thu vẫn dùng ngôn ngữ Việt làm tiếng phổ thông giữa các quốc gia nhỏ ở Trung Nguyên và gọi là Nhã ngữ. Nhã ngữ là Việt ngữ mà ngày nay cũng bị gọi là Hoa ngữ khi đã bị đơn âm hóa nên nhiều người lầm tưởng 'Việt' 'Hoa' là hai ngôn ngữ khác nhau. Ví dụ 'Trữ-la' thôn thì thực ra là 'Tử la' thôn, có nghĩa là 'thôn Tả'. 'Trả' 'tả' hay 'trái' chính là 'Tó' (Triều Châu), 'Chỏ' (Quảng Đông), 'Chò' (Bắc Kinh) dù chung một gốc mà sau khi biến âm thì vùng nầy lại không hiểu ngôn ngữ vùng kia. Điều này cũng chứng tỏ Việt Ngữ (Chữ Nôm) là nguồn cội làm nên Hán Tự và Hoa Ngữ bây giờ- Đỗ Thanh : Nguồn Gốc Chữ Hán Có Từ Chữ Nôm)
Điều này còn được chứng minh qua các công trình nghiên cứu của những nhà ngôn ngữ học cận đại Trung Hoa. Các chuyên gia ngôn ngữ học của nhiều thế kỷ đã bỏ công nghiên cứu Ký âm của Việt Nhân Ca là ngôn ngữ gì? tập hợp các công trình tập thể nghiên cứu Việt Nhân Ca gồm những người am hiểu hầu hết các ngôn ngữ, họ dẫn chứng là ký âm của Việt Nhân Ca có thể giải thích bằng tiếng nói các dân tộc : Tráng tộc 壮族、Đồng Tộc侗族, Bố y Tộc布依族, Thái tộc傣族, Thủy tộc水族, Mao Nam tộc毛南族, Hạ lào tộc仫佬族, Lê tộc黎族...Vì các dân tộc nầy đều có nguồn gốc từ Cổ-Việt-Tộc古越族。Và cuối cùng thì Thuyết Ký âm Việt Nhân Ca được kết luận là của người Choang-Tráng Tộc (Dân Tộc Thái)
Nhà nghiên cứu cổ nhạc cuả các dân tộc ở Trung quốc là ông Phùng Minh Tường đã khẳng định 'Việt Nhân Ca' bị cho là tiếng Choang thật sự không đúng! vì tìm hết các thể điệu Dân Ca của Choang không hát được 'Việt Nhân Ca' trong khi nó chính là một bài dân ca. nhưng ông ta cũng không tìm ra được 'Việt Nhân Ca' là của Dân tộc nào.
Bản Ký âm tiếng Việt của bài ca được ghi lại là:
滥兮抃草滥 Lạm hề biện thảo lạm dư
昌枑泽予昌州州 Xương hằng trạch dư xương châu châu
饣甚州焉乎秦胥胥 Thực thầm châu yên hồ tần tư tư
缦予乎昭 Mạn dư hồ chiêu
澶秦逾渗惿随河湖Thìn tần du sâm, đề tuỳ hà hồ
Bản ký âm nầy khi phiên ra Hán Tự thì thiếu một chữ ở câu số 3:'饣', đó chính là chữ 飠-Thực.)
Trình tự 'Phục nguyên' những ký âm cuả Việt Nhân ca của anh Đỗ Thanh Nhạn Nam Phi như sau :
Chữ đã ghi lại Việt nhân ca được thể hiện bằng 33 chữ.
滥 兮 抃 草 滥 予 昌 枑 泽 予 昌 州 州 飠 甚 州 焉 乎 秦 胥 胥 缦 予 乎 昭 澶 秦 踰 渗惿 随 ...河 湖。
Những chữ phiên âm ghi giống nhau, thì khi tìm hiểu, phiên dịch, phải là cùng 1 chữ. Nếu không, thì là Sai. Sở dĩ người ta phiên dịch không đúng 'Việt Nhân Ca' là vì không khắc phục khuyết điễm nầy.
Ví dụ:_滥滥,予予予,昌昌,州州州,乎乎,胥 胥
- Đó là tiếng Việt, (chú ý 2 chữ có gạch nối là 1 chữ 'đa âm')
滥 兮 抃 - 草 滥 予 Lạm hề biện-thảo lạm dư
昌 枑 泽 - 予 昌 州 州 飠 Xương hoàng trạch-dư xương châu thực
甚 州 焉 乎-秦 胥 胥 Thẩm châu yên hô-tần tư tư
缦 予 乎-昭 澶 秦 踰 渗 惿-随 Mạn dư hô-chiêu thìn tần du sâm đề-tùy.
...河 湖。 Hà Hồ.
Để dịch bài này từ tiếng Việt xưa ra tiếng Việt nay: xin giải thích những ký âm của Việt nhân ca:
滥 : 'Lạm' là 'Lam' hay 'nam' tức là 'Năm', 'L' và 'N' thường là biến âm, ngày nay màu 'Lam' tiếng Triều Châu là 'Nam'. Rất nhiều nơi ở Quảng, Triều, Việt thường lẫn lộn 'L' và 'N'.
兮: Hề... hầy, nầy, nè, đây... nhiều biến âm.
抃草: Biện-thảo là từ đa âm của 'bảo'.
予: 'Dư' còn có âm 'ia' (Triều Châu, Bắc kinh): Năm 'dư' có thể như ngày nay là 'năm kia', 'năm Xưa'
昌: ký âm 'xương' là 'thương'. Ngày nay tiếng Quảng Đông-thuần Việt là 'Sẹc', Triều Châu-thuần Mân Việt là 'Siaiê'.
枑: 'Hằng' hay 'Hoàng'.
泽予: 'Trạch-Dư' hay 'Trạch-Dử' là 'Trử' hay 'Tử',
飠: Thực, tiếng Quảng Đông à sực, Bắc kinh là Sữa: phát âm như là 'Xưa'.
甚 : Thẩm hay Thậm là Sẩm, sửm, sơm tiếng tiếng Quảng Đông, và Bắc kinh 'Sum' phát âm như 'Sớm'.
州: Châu, phát âm Mân Việt -Triều Châu thì đọc là 'Chiêu', 'Chiệu' như 'Chiều'.
焉: (zen)Hiện nay phiên âm là 'Yan' phát âm tiếng Bắc Kinh như em.
乎秦: 'Hô-tần' đa âm, là 'Hận' đơn âm.
乎昭: 'Hô-chiêu' đa âm là 'Hiểu' đơn âm.
澶: 'Thẳn' hay 'Đặng' hay 'được'. Nếu tra tự điển và phiên dịch là 'Thìn' hay 'chiền' là không đúng! Bên trái là bộ 'Thủy' và bên phải là chữ 'Đàn', đọc là 'Thẳn' hay 'đặng' và nghĩa là 'nước xối... thẳng, thông, đặng'. Tiếng Quảng Đông: 'Thànn', Tiếng Triều Châu: 'thànn' hay 'thạnn'. 胥胥: 'tư tư' là Tương Tư.
秦 踰: Tần Du, là ký âm 'tình duyên' hay 'tình yêu', 秦 là Tsình của tiếng Triều Châu ngày nay, 踰, du, Duyè (Quảng đông), Dua (Triều Châu).
渗: 'Sâm' là Sâu, tiếng Quảng Đông ngày nay 'sâu' vẫn là 'Sâm'.
惿随: 'Đề-Tuỳ' đa âm là 'đùy' đơn âm, là 'đầy'
河- Hà: Hò 湖- Hồ: Hớ
Như vậy, nghĩa Việt của bài ca như sau:
Năm nầy Biện-thảo năm xưa
Thương Hoàng Trạch-dữ thương chiều chiều xưa
Sớm chiều em hận tương tư
Mà ai hiểu đặng tình yêu sâu đầy.
....Hò
Hớ.
(Đỗ Thành Nhạn Nam Phi: Phục Nguyên Việt Nhân Ca)
Như vậy là theo sự phục nguyên lại Việt Nhân Ca thì đó chính là một bài Lục Bát:
Hò... ... hớ...
Năm nầy bảo với năm xưa
Thương chàng hoàng tử thương mùa chiều xưa
Sớm chiều em hận tương tư
Mà ai hiểu đặng tình vừa nặng sâu.
Theo anh Đỗ Thành thì khi đọc Việt Nhân Ca bằng cách ký tự chữ Nôm của Việt Tộc thì Việt Nhân Ca cực kỳ dễ đọc và dễ hiểu, chẳng có gì khó khăn và rắc rối như những nhà ngôn ngữ học của Trung Hoa phải 'lặn lội' hết ngôn ngữ của dân tộc này đến ngôn ngữ của dân tộc khác để truy nguyên, mà cuối cùng cũng chỉ kết luận được là 'Hình Như..' và rồi lại phủ định 'hình như mà hình như không phải thế'. Trong khi truy nguyên bằng Việt Ngữ thì rõ ra mười mười là một bài dân ca viết theo thể Lục bát có nguồn gốc xuất phát từ nơi sông nước của nền văn hóa lúa nước. Mà cái nôi của nền văn hóa lúa nước của Nhân Loại chính là đất Phong Châu của chúng ta.
Ngày nay hai chữ 'Hò.. Hớ..' trong Việt Nhân Ca vẫn còn tồn tại trong các điệu hò câu lý của nhân dân vùng sông nước của chúng ta.
Như vậy bằng sự truy nguyên Việt Nhân Ca, chúng ta có thể khẳng định 'thủy tổ' của thể thơ Lục bát chính là Việt Nhân Ca, một khúc dân ca của Việt Tộc đã được ký tự lại cách đây 2800 năm về trước. Việc phục nguyên lại Duy Giáp Lệnh và Việt Nhân Ca bằng Việt Ngữ, của anh Đỗ Thanh đã chứng tỏ, tiếng Nôm có trước tiếng Hán, và nền văn hóa của nước Trung Hoa bây giờ có nguồn gốc xuất xứ từ đất Phong Châu của Lạc Việt
Điều đó còn lý giải cho một bí ẩn của lịch sử là tại vì sao suốt 1000 năm Bắc thuộc đằng đẳng mà nền Văn Hóa của Việt Tộc không bị mai một và đồng hóa. Đồng Hóa thế nào được, khi nền văn hóa của phương Bắc chỉ là nền văn hóa 'Con', còn nền Văn Hóa của nước Nam là nền văn hóa 'Mẹ'. Con thì có thể nào đồng hóa được Mẹ chứ. Cho dù lịch sử có tính giai đoạn. Và trong một giai đoạn nào đó phương Bắc có đủ tiềm năng kinh tế, chính trị và quân sự để lấn lướt và uy hiếp chúng ta. Nhưng họ không thể nào khuất phục được truyền thống của Dân Tộc Việt. Vì họ không bao giờ, vĩnh viễn không bao giờ có thể thôn tính, đồng hóa được nền Văn Hóa Việt Nam. Vì Nền Văn Hóa Việt Nam là cái nôi sinh ra nền Văn Hóa của Phương Bắc. Văn Hóa còn là Tổ Quốc còn, đó là qui luật bất di bất dịch của lịch sử phát triển Nhân Loại.
Rất chân thành cảm ơn Anh Đỗ Thanh Nhạn Nam Phi đã cung cấp tư liệu cho bài viết này.
Nhà nghiên cứu Thuận Nghĩa
(TP. Hamburg, CHLB Đức)
(Rút từ Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Thơ Lục Bát với Di sản Văn hoá dân tộc", do Nhà thơ Đặng Vương Hưng kết nối thực hiện năm 2019).
CÁM ƠN NHÀ VĂN PHẠM TÂM DUNG ĐÃ SƯU TẦM GỬI CHO BÀI NÀY!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét