MỘT
NGƯỜI HÀ NỘI THƠ LẶNG LẼ
Đọc
Hoa
trạng nguyên của Nguyễn Trác, nxb Hội Nhà Văn,2015
Vũ Nho
Người
ta thường lấy một tên gọi vừa gợi cảm, vừa có ý nghĩa, hoặc khá phổ biến là lấy tên một bài thơ tâm đắc
để làm tên cho cả tập thơ. Nhưng tập Hoa trạng nguyên thì không có một
bài thơ nào như vậy. Đó chỉ là mấy từ trong một câu thơ của bài thơ Sa Pa
ở khổ cuối cùng:
Bất
chợt tiếng khèn
Thảng
thốt hồn chiều
Hoa
trạng nguyên đỏ thắm.
Nhưng
ngẫm kĩ thì đặt tên như vậy cũng hàm chứa nhiều ý nghĩa. Cái loại hoa đỏ thắm
có tên là trạng nguyên ấy khá phổ
biến trên hàng rào nhà người vùng cao. Nó là loài hoa bình dân, giản dị. Màu
sắc đỏ thắm của nó đỏ đến nao lòng và gợi cảm, đặc biệt là gợi nhớ về lịch sử
thi cử ngày xưa. Mà điệu tâm hồn của nhà thơ Nguyễn Trác là một điệu thường
hướng về quá khứ, hướng về lịch sử, suy ngẫm từ lịch sử. Chúng ta sẽ gặp những
suy tư thơ trên Phổ cổ; Vết đạn trên thành cổ; Màu cô ban cổ; dõi dấu tiền nhân; Lịch
sử Người lửa đỏ từng trang; Mùa thu Đại Việt/ Mây trắng bay như những chiến
thuyền/ Hào khí Đông A; Tiếng ngựa hí
nước dâng từ tiền sử mơ hồ…( Tên những bài thơ, ý thơ, câu thơ trong tập).
Khi đọc những câu thơ có tính tự thuật
này:
Cậu bé sinh thành phố
Thêm người mẹ áo nâu
Giấc ngủ thêm hương lúa
Đêm thêm câu hát gọi trầu
Cậu bé hồn lãng tử
Gió
sương sen hồ
Tôi
nghĩ rằng thành phố Hà Nội và vùng quê
kinh Bắc đã nuôi dưỡng hồn thơ, đã làm giàu tâm hồn nhạy cảm, đã chuẩn bị cho cậu bé thành nhà thơ. Và cậu
bé đó viết nhiều về Hà Nội, về những
miền quê của đất nước là một chuyện tưởng không có gì ngạc nhiên hay cần phải lí giải.
Trong tập thơ Hoa trạng nguyên, những
bài viết về Hà Nội, về kỉ niệm của tác
giả khá nhiều, khá sâu. Phải nhạy cảm, và đặc biệt là có một tình yêu Hà Nội
rất nồng nàn, máu thịt mới có thể viết những dòng như vậy.Về cây cầu Long Biên
chứng nhân lịch sử hàng trăm năm tuổi, nhà thơ nhìn thấy như dáng rồng bay
trong huyền thoại:
Người
bay cao hơn những gì mỏi mệt
của thế hệ
húng tôi
tới đỉnh
những giấc mơ
trong cuộc
sống ngàn đời
Cầu Long Biên
Anh yêu buổi sáng thành phố yên tĩnh với những ông già
đi bộ, những bạn trẻ đi ăn và:
Người đàn bà
bán cây
chở cây vào
thành phố
ban mai thơm
hương bưởi hương hồng
Buổi sáng
Anh yêu tháng Mười Hà Nội, đặc biệt là những cô gái
trẻ trung, tươi thắm của Thủ đô thanh lịch làm trẻ lại con hồ nhiều trăm năm
tuổi:
Các cô gái
thắm tươi
Đỏ rực áo
phông
Làm trẻ lại
Hồ Gươm
Tháng
Mười Hà Nội
Suy ngẫm trước vết đạn trên thành cổ. Bâng khuâng miên
man trong Quán Trung Hoa ở phố Yết Kiêu. Lặng lẽ hoài niệm những mùa rau khúc
xưa trong Phố cổ. Hân hoan vui mừng trước vẻ tinh khôi sớm mồng một Tết ở Hà
Nội. Lắng nghe tiếng chuông chùa Bồ Đề sang sông. Cảm nhận Gió lạnh quanh hồ
Hoàn Kiếm với những thăng trầm, đổi thay thế sự:
Đau đáu
chuyện kinh thành
…mùa này liễu
chẳng còn xanh
Quanh Hồ Gươm
toàn nghe nói chuyện tiền
Quanh Hồ Gươm
không còn hầm trú ẩn
Báo rao như
hát những hung tin
Các em bé
chơi game
Hồn nhiên như
lá biếc
Đó là những cung bậc khác nhau của bản nhạc tình yêu
Hà Nội trong lòng tác giả. Chỉ biết rằng anh vô cùng yêu quý, nâng niu, thành
phố này. Đến mức một một người không quen biết, tập thể dục buổi sáng như bao
người, nhưng được nhà thơ trân trọng như là biểu tượng của một Hà Nội trẻ
trung, khỏe khắn, biểu tượng của cuộc sống thủ đô ngàn tuổi:
Với đôi chân khỏe mạnh
Nàng bay lên trên sỏi đá cằn
Bên cạnh nàng là hoa vừa nở
Cùng tiếng chuông chùa đã nghìn năm
Người đàn bà dậy sớm
Một tâm hồn rộng mở, luôn luôn nâng niu, trân trọng
những giá trị cuộc sống, khi ra ngoài Hà Nội, về các vùng miền của đất nước như
được bồi đắp thêm các giá trị văn hóa mới và tình cảm mới. Miền quê nào cũng có
những nét đẹp riêng, lắng lại trong cảm xúc của nhà thơ và sinh thành những câu thơ ấn tượng.
Một cô gái người dân tộc trên Sa Pa :
Vừa đi vừa se lanh
Váy áo rung rinh đèo dốc
Một nghệ nhân già trong làng gốm Chu
Đậu:
Tóc bạc nghiêng nghiêng đổ
Xuống một thời hoa niên
Men ngọc chảy thành sen
Trăng mờ rồi trăng tỏ
Sau ngọn lửa hoàn nguyên
Là màu cô ban cổ
Chiều
Chu Đậu
Một vùng quê Thanh Hóa hiện hình trong tranh của họa
sĩ đồng quê rồi thăng hoa, định dạng trong thơ Nguyễn Trác:
Rừng Pù Luông nắng mật ong
ruộng bậc
thang vạt lá dong mã đề
trong đầm sen
trắng chiều quê
trăm con vịt
trắng bơi về nghìn năm
Họa sĩ đồng quê
Một khoảnh khắc miền Tây với cà phê võng
và đờn ca tài tử như một đặc sản khó quên:
Đung đưa…dạ cổ hoài lang
Cà phê võng với mênh mang
chuông chùa
Chim kêu vườn bưởi vườn dừa
Gập ghềnh cầu ván nhặt thưa
đàn kìm
Về miền
Tây
Có
khi không có một địa danh cụ thể, nhưng người đọc biết rõ đó là cảnh quen thuộc
bất cứ phố thị nào, khi chúng ta ra khỏi những kiến trúc bê tông, gương kính.
Đó là nông thôn hay có tên gọi khác là làng quê, rút gọn còn một chữ “quê”. Ở
đó sinh ra cô gái bán hàng:
Cô gái quê
Bưng
những mẹt hàng
Như
bưng cả mùa thu đậu phụ rán vàng
Khúc Tiêu Sơn
Trong
tập còn có những bài thơ khác, người viết tặng bạn thơ, bạn văn, tặng các bậc
tiền bối sáng tạo như Phùng Cung, Phạm Hổ, Vương Trí Nhàn, Trần Quốc Thực, Phan
Thanh Cường, PTM, HKD,… cũng đều với tinh thần yêu thương, trân trọng.
Một phần của tập thơ là bài thơ dài “
Vĩnh Trinh mùa nước”. Tác giả không gọi tên thể loại, nhưng có thể xem đây là
một trường ca. Không quá hoành tráng nhưng đủ để ghi lại một vùng đất với bao
thăng trầm, biến thiên của lịch sử. Có những câu thơ giàu sức gợi, đọc xong rồi
vẫn cứ ám ảnh:
Đêm
miền Trung
Tháng
chín vùi trong bão
Nước
sông Hàn vỡ vụn màu xanh
Mưa
phóng xuống trăm ngàn ngọn giáo
Hoặc
:
Mùa
xuân tong teo trên ngọn muống già
Cây
lúa bấp bênh hai đầu hạn úng
Và
đây nữa :
Lệt
sệt bùn đặc sánh từng xô
những xô nước
cuối cùng rồi đấy
còn ai chưa
rửa mặt sáng này
những cánh
đồng khô hạn tìm mây
mặt trời mặt
trăng mặt người đỏ cháy
mặt giếng quá
sâu rồi em chẳng thể soi gương
*
Thế hệ chúng
mình sinh trong nghèo khó
Lớn khôn cùng
đạn bom
Đó là hai câu trong bài thơ dài “ Vĩnh Trinh mùa
nước”. Phải chăng đó cũng là hai câu thơ khái quát cho một thế hệ các nhà thơ
xuất hiện và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nguyễn Trác
in tập thơ riêng đầu tiên năm 1987, nhưng
có thể viết nhiều mà không in
nhiều. Quân bình gần 5 năm mới có một tập. Nhà thơ thấy công việc làm thơ và
viết văn càng ngày càng khó. Cần phải có đủ tình yêu và trung thực. Thiếu một
trong hai , khó có thơ chứ chưa nói đến thơ hay.
Không hiểu sao, tôi có ấn tượng về người thơ cũng như
thơ Nguyễn Trác gần gũi với Nguyễn Huy Dung. Lặng lẽ, kín đáo, khiêm nhường.
Nhưng thơ anh đủ sức neo vào tâm trí bạn đọc, nếu ai đã đọc anh bằng một cách đọc
nhẩn nha, không vội vã.
Hà
Nội, ngày 5 tháng 11 năm 2015
In báo Văn Nghệ, Hội nhà văn Việt Nam số 47 ngày 21/11/2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét