Nhân
kỉ niệm 250 năm ngày sinh
Đại
thi hào dân tộc Nguyễn Du
-
danh nhân văn hoá thế giới (1765 – 2015)
THÚC SINH TỪ
BIỆT THUÝ KIỀU
BẢO KIM HOÀNG
“Thúc
Sinh từ biệt Thuý Kiều” (*) là một trong những trích đoạn tả cảnh đẹp
nhất không chỉ riêng trong Truyện Kiều của Đại thi hào dân tộc Nguyễn
Du, mà còn của cả văn chương cổ điển Việt Nam nhiều thế kỷ.
Mối tình của
Thúc Sinh và Thuý Kiều ban đầu vốn là mối tình của một nhà buôn đã có vợ với
một kỹ nữ xinh đẹp chốn thanh lâu, bề ngoài không có gì khác với những mối tình
gió trăng thời ấy.
Nhưng rồi số
phận, nỗi đa đoan, sự đa cảm và chiều sâu trong tâm hồn Kiều cùng sự mê đắm của
Thúc Sinh đã khiến mối tình đó, trong cái hiện thực khắc nghiệt và khao khát ở
thời đại Nguyễn Du và Truyện Kiều,
có một giá trị khác biệt.
Nếu cảm nhận sâu hơn về thân thế Nguyễn Du - con
của vợ thứ ba quan Tể tướng Nguyễn Nghiễm, và người mẹ sinh ra nhà thơ vốn là
một phụ nữ xuất thân từ xứ Kinh Bắc, tài hoa, nết na xinh đẹp nổi tiếng hát
hay, nhưng ba mươi chín tuổi đã sớm lỉa trần, bỏ lại con trai là Nguyễn Du khi ấy
mới mười một tuổi; ta sẽ hiểu vì sao Nguyễn Du lại dành cho Kiều và mối tình éo
le của nàng một sự ưu ái và thương cảm sâu xa đến như vậy. Và tình yêu, mối
liên tài, sự quý trọng vô bờ đối với người phụ nữ đã tạo nên vẻ đẹp kiều diễm
và chất thơ đầy lãng mạn trong các Thiên
diễm tình của nhân vật Kiều, mà mối tình với Thúc sinh là một.
*
Trích đoạn sau miêu
tả cảnh Thúc sinh từ biệt Thuý Kiều, khi Thúc sinh theo lời Kiều,
buộc phải lên đường từ Lâm Tri trở về Vô Tích để trần tình cùng vợ cả, một tiểu
thư con quan lớn nhà họ Hoạn.
Bản chất đắm say
trong mối tình của họ đã khiến phong cảnh và tâm hồn nhân vật thấm đẫm một nỗi
buồn ly biệt:
“Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng
phong thu đã nhuốm màu quan san
Dặm
hồng bụi cuốn chinh an
Trông
người đã khuất mấy ngàn dâu xanh
Người
về chiếc bóng năm canh
Kẻ
đi muôn dặm một mình xa xôi
Vầng
trăng ai xẻ làm đôi
Nửa
in gối chiếc, nửa soi dặm trường”
Không một chút tì
vết của những đau thương khổ nhục khi Kiều vừa thoát khỏi lầu xanh của mụ Tú
Bà; trích đoạn biểu hiện Kiều đã sống hết mình cho Thúc sinh, cho mối tình mây
nước của nàng, cho ân nhân, người đã chuộc nàng ra khỏi chốn thanh lâu, đã say
mê nàng và lấy nàng làm vợ. Trong mối tình đó, người đọc chỉ đọc được niềm rung
động và vẻ đẹp của một trang tài tử đa tình với một giai nhân tuyệt sắc.
“Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng
phong thu đã nhuốm màu quan san”
Ta như hình dung
thấy Thúc sinh vừa lên ngựa, lưu luyến không nỡ dứt, còn nàng Kiều vừa buộc phải
buông áo của chàng. Cuộc chia tay diễn ra giữa một khung cảnh rừng phong thu đã
trở nên đỏ rực.
Bạn đọc hẳn có
thể liên tưởng tới bóng non vàng lộng lẫy trong hoàng hôn mùa thu của một áng thơ Kiều:
“Long lanh đáy nước in trời
Thành
xây khói biếc, non phơi bóng vàng”
Nhưng dưới con mắt của đôi trai gái chia ly
thì rừng phong thu ấy đã tắt đi cái ánh vàng rực rỡ, bởi không thể không nhuốm
một màu quan san tê tái, màu của biệt ly, xa cách. Nơi từ biệt bên rừng phong thu cũng
là nơi con đường sẽ dẫn chàng Thúc, người yêu của nàng Kiều tới Vô Tích; và Vô
Tích chính là nơi về sau cả Kiều và Thúc sinh sẽ gặp nhau trong khổ đau và nước
mắt. Coi như một niềm tiên cảm vậy.
“Dặm hồng bụi cuốn chinh an
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh
Thúc sinh đi rồi,
Kiều nhìn theo mãi con đường đất đỏ mà bụi hồng cuốn theo chân ngựa, và còn
nhìn theo mãi, ngay cả khi hình bóng Thúc sinh đã khuất qua bao dặm đường
trường.
Có thể khi đọc hai
câu thơ trên, một bạn trẻ thời hiện đại sẽ ngạc nhiên: Có phải hai bên đường xưa
người ta trồng dâu? và người ta trồng dâu xanh liền mạch với rừng phong chăng?
Có lẽ rằng không
phải. Ta chỉ hiểu được phong cảnh thiên nhiên trong thiên tiểu thuyết này như
là tưởng tượng; và có lẽ chính Nguyễn Du đã tưởng tượng, đã hoà màu vào bức
tranh cổ điển, để dặm hồng biến thành
dặm xanh, nơi con đường đã xa ngút
mắt. Và như vậy là để màu xanh ngắt trở
thành cõi vô cùng của biệt ly và xa cách, như hình tượng thơ được điệp lên bởi
sự đánh thức trong tâm khảm cái màu xanh trùng trùng qua khúc ngâm não nề của người chinh phụ:
“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy
xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn
dâu xanh ngắt một màu
Lòng
chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”
Nguyễn Du đã láy
lại hình ảnh ngàn dâu trong Chinh phụ ngâm khúc nổi tiếng đương
thời, để khắc đậm hơn vẻ sầu muộn, vốn là cái mỹ học sâu sắc căn bản của thơ cổ
điển phương Đông, khiến không gian và tâm trạng nhân vật được nhuốm một sắc
diện u buồn.
Trên cái nền tự
sự của cảnh chia ly ấy, hai câu tiếp mô tả hình ảnh hai người trong nỗi chia phôi:
“Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ
đi muôn dặm một mình xa xôi
Người về/ Kẻ đi - chừng đó diễn tả hai
phương của sự xa cách, và hình ảnh chiếc
bóng năm canh gợi ra một dung nhan vò võ âm thầm. Hình bóng cô đơn lặng lẽ
của nàng Kiều hiện lên trong một không gian thao thức, còn ở phía bên kia,
trong cùng một thời gian, hiện lên hình ảnh lẻ loi của Thúc sinh trên con đường
xa muôn dặm. Bằng vào cách đó, Nguyễn Du đã diễn tả một cách thầm kín tấm
thương - vốn là một bản chất rất sâu xa trong tâm hồn người đàn bà.
Nếu dừng lại ở hai
câu trên, coi làm đoạn kết, thì đoạn thơ mới chỉ có ý nghĩa của chia ly và xa
cách, chưa có cái sắc thái đặc biệt của tình yêu.
Nhưng cũng như
những nhà thơ lớn của nhân loại - những thi sĩ đã viết nên thiên tình ca tuyệt đẹp
“Tơritxtan và Izơ”,…; và cũng như Sêcxpia và Tônxtôi, Nguyễn Du đã cho trăng về
làm ngời sáng cả vòm trời của đôi trai gái yêu đương, đã khiến nỗi nhớ nhung
trở nên tha thiết và bất tử; đồng thời mang đến cho người đọc một hình tượng – thơ,
hay vào bậc nhất, kiều diễm vào bậc nhất trong những hình tượng thơ tiếng Việt:
“Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa
in gối chiếc, nửa soi dặm trường”.
Vầng trăng xẻ nửa là vầng trăng tượng
lên nỗi phân ly, bị cắt chia đau đớn, không
trọn vẹn, không hạnh phúc. Nhưng
vầng trăng ấy lại sáng soi vằng vặc và đầy thương cảm, nửa cho chiếc gối cô đơn
thao thức của nàng Kiều, nửa cho dặm đường xa xôi vời vợi của Thúc sinh.
Riêng ngôn ngữ
câu 8 có nhịp điệu 4/4 (một sự đổi nhịp kỳ diệu của câu bát trong lục bát), cộng
thêm cấu trúc đối ứng (nửa… / nửa…) mieu tả khoảng cách, có giá trị gợi nên một tương tư! Về mặt mỹ cảm, cấu
trúc đó đã góp phần đưa ngôn ngữ thơ đạt tới một vẻ đẹp sang trọng,
vượt ra ngoài lối nói nôm truyền thống. *
Cả đoạn thơ Thúc
Sinh từ biệt Thuý Kiều chỉ vẻn vẹn có 8 câu lục bát, thông qua miêu tả,
không trực tiếp biểu hiện nỗi lòng nhân vật. Vậy mà đã làm hiện lên cả khung
cảnh, con người, cảnh vật, tâm trạng,
cùng với những diễn biến của cuộc chia ly, từ lúc bắt đầu, trông theo, trở về,
… thao thức!
Nhân vật trung tâm,
nhân vật - cảm xúc là Kiều.
Và cứ hai câu lại hiện lên một bức tranh.
Bằng thiên tài
của mình, Nguyễn Du đã vượt qua những thử thách, những nguyên tắc, những quy ước
“thi trung hữu hoạ” khắt khe của văn chương bác học đương thời, mà vẫn tuân
thủ nguyên lý sáng tác lấy cảnh ngụ tình,
để màu sắc, ánh sáng, đường nét và vẻ đẹp ước lệ trong những bức tranh ấy vẫn làm xao xuyến,
vẫn làm thổn thức tim ta:
Bức thứ nhất
Nguyễn Du lấy màu vàng nguyên pha đỏ rực – tức lấy màu vàng đỏ u trầm lộng lẫy của rừng phong thu
làm chủ đạo, để diễn tả cái khung cảnh huy hoàng tê tái của cuộc chia ly.
Bức thứ hai
Nguyễn Du lấy màu xanh ngắt của ngàn dâu làm chủ đạo, diễn tả con đường xa muôn
dặm (tức dặm xanh) trong cái nhìn dõi
theo đầy thương xót của Kiều.
Bức thứ ba lấy
không gian giãn cách, không gian khuya vắng làm chủ đạo, diễn tả nỗi âu sầu xa
cách.
Bức thứ tư lấy
ánh trăng - vầng trăng làm chủ đạo, diễn tả nỗi thao thức nhớ nhung.
Thời gian trong
4 bức tranh nhất quán, được xếp theo tuyến tính, phù hợp với các lớp
lang “truyện kể” nôm và diễn biến của tâm trạng nhân vật.
Đường nét, bút
pháp chấm phá cổ điển, vừa lãng mạn, vừa nên thơ.
Bộ tứ bức tranh
tiễn biệt - bốn bức liên tiếp (cũng như bốn lần Kiều đánh đàn, bốn lần Kiều nhớ
nhà), phản ánh cái cấu trúc mỹ học cân bằng, cái trật tự hài hoà của thẩm mỹ học
cổ điển đương thời về Cái Bốn, và như ta thường thấy trong bộ bốn bức tranh Tố
nữ tuyệt đẹp qua nét vẽ truyền thống của
các hoạ sĩ dân gian.
*
Trong Truyện
Kiều, Nguyễn Du đã mô tả ba mối tình của Kiều: Kiều với Kim Trọng, Kiều với
Thúc sinh, Kiều với Từ Hải. Mối tình nào cũng sét đánh, cũng si mê ngay từ lúc
ban đầu, khi dưới một trời xuân lồng lộng: “Cỏ
non xanh dợn chân trời”, khi thì trước nhan sắc và tiếng cầm ca, khi giữa bao
nhiêu lời truyền tụng về cặp mắt xanh cao ngạo của Kiều. Ở nơi đâu
trong tuổi thanh xuân trong sáng và trong chuỗi trầm luân của cuộc đời Kiều,
tình yêu cũng cứu chuộc nàng!
Trước Nguyễn Du,
văn học Việt đã có những truyện Nôm khuyết danh xuất hiện từ cuối thế kỷ thứ
XVII đến giữa thế kỷ thứ XVIII, ca ngợi những mối tình vượt ra ngoài lễ giáo
phong kiến, như “Phan Trần”, “Lâm tuyền
kỳ ngộ”, “Bạch Viên, Tôn Các”,”Bích Câu kỳ ngộ”…
Là một nhà thơ
lớn, Nguyễn Du đã viết về tình yêu nam nữ trong khuynh hướng nhân đạo và tự do
của thời đại, như một đòi hỏi tự thân và như một nỗi khát khao chính đáng của
những đôi trai gái yêu đương. Thiên tài của ông đã để lại trong Truyện Kiều những vần thơ hay nhất về
những say đắm và những nỗi nhớ nhung sầu muộn của một tình yêu không trọn vẹn,
lãng mạn và đầy bi kịch.
*
Đoạn trích “Thúc
Sinh từ biệt Thuý Kiều” càng trở nên vô giá, vì nó đã ghi lại được một
trong những khoảnh khắc tốt đẹp nhất, quý giá nhất của cuộc đời Kiều: - khoảnh
khắc được sống trong tình yêu và trong những giới hạn mong manh của tự do./.
…………………………………………………………………………
(*) Tên đoạn trích được lấy theo tên các nhà nghiên cứu Truyện
Kiều tự đặt trong SGK phổ thông, để tiện phân biệt với các trích đoạn khác
như “Tài sắc chị em Thuý Kiều”, “Kiều mắc lừa Hồ Tôn Hiến”, v…v.
HÀ NỘI - ẤT
MÙI 2015
BKH
(bản sửa lần cuối – tháng
9/2015)
(Đã đăng trên báo NGƯỜI HÀ NỘI SỐ 43- RA
NGÀY THỨ SÁU 6/11/2015. Tr13)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét