Vĩnh biệt nhà thơ Xuân Đam!
Nhà thơ Xuân Đam, hội viên Hội văn học nghệ thuật Thái Bình, sau thời gian bệnh trọng, mặc dù được gia đình và các bác sĩ hết lòng chạy chữa, đã từ trần ngày 12/11/2015, hưởng thọ 73 tuổi.
Xin chia buồn cùng gia quyến và Hội văn học nghệ thuật Thái Bình!
Cầu cho anh linh nhà thơ siêu thoát miền cực lạc!
Dưới đây là bài viết về "Tuyển tập thơ văn Xuân Đam" như một nén nhang thắp cho anh!
Nhà thơ Xuân Đam
Nhà thơ Xuân Đam, hội viên Hội văn học nghệ thuật Thái Bình, sau thời gian bệnh trọng, mặc dù được gia đình và các bác sĩ hết lòng chạy chữa, đã từ trần ngày 12/11/2015, hưởng thọ 73 tuổi.
Xin chia buồn cùng gia quyến và Hội văn học nghệ thuật Thái Bình!
Cầu cho anh linh nhà thơ siêu thoát miền cực lạc!
Dưới đây là bài viết về "Tuyển tập thơ văn Xuân Đam" như một nén nhang thắp cho anh!
Nhà thơ Xuân Đam
XUÂN
ĐAM NHÀ THƠ QUÊ LÚA
Đọc
Tuyển tập thơ văn Xuân Đam, nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2015
Vũ Nho
Một
tuyển tập dầy dặn được in kịp cho Xuân Đam nhìn thấy khi nhà thơ bệnh trọng.
Thất đáng nể phục các văn, thi hữu Thái Bình đã làm một công việc nghĩa cử đẹp
đẽ, ấm áp tình của những người cầm bút với nhau.
Công bằng mà nói, ngoài việc thương mến một đồng
nghiệp, những bạn bè còn vô cùng thương mến một nhà thơ tài hoa, một Nguyễn
Bính tái thế của vùng quê lúa. Nhà thơ Xuân Đam là niềm yêu, là niềm tự hào của
các bạn viết Thái Bình. Không phải ngẫu nhiên mà Bùi Hoàng Tám khẳng định : “ Ở
Thái Bình, nếu chọn một nhà thơ được đọc nhiều nhất, được mến mộ nhất và cũng
nổi tiếng nhất, đó là nhà thơ Xuân Đam” ( Xuân Đam, thơ – đời và rượu).
Là một giáo viên tài năng, từng cầm súng nơi mặt trận,
rồi lại tiếp tục cuộc đời dạy học, làm thơ, Xuân Đam đã trải nghiệm có thể nói
là tất cả những nỗi buồn niềm vui, những
gian nan, vất vả, hiểm nguy và những ngọt ngào cay đắng của một đời người. Các
bạn viết đã khái quát, tóm tắt ba niềm đam mê của đời anh là thơ, rượu và…những
bóng hồng. Thật hiếm có nhà thơ nào mà tên các tập thơ luôn gắn liền với rượu.
Sáu tập thơ in riêng thì có 5 tập có nhan đề gắn liền với rượu : Rượu quê, Rượu
lạnh, Rượu lửa, Rượu hát và Rượu đắng.
Rượu thơ xưa nay vốn gắn liền với những tên tuổi của
một số nhà thơ lãng tử. Bầu rượu, túi thơ từng là biểu tượng hành trang của
người phong nhã, hào hoa. Rượu thường
kích thích sự hưng phấn, thăng hoa, sáng
tạo. Phải thế chăng mà Xuân Đam mê rượu, thậm chí thấy bạn rượu, bạn thơ của
mình và có thể cả mình là “chai rượu “ biết đi:
Anh là chai rượu biết đi
Lằng
ngoằng, lướt khướt, li bì, lung linh
Rượu hát
Xuân
Đam được bè bạn và người đọc mến yêu không phải vì «tài rượu» mà chính là vì
mượn hơi men, anh đã nhập đồng, ca hát
về quê lúa, về những ngôi làng, những
người bà, người mẹ, người tím, người chị.
.. Những người phụ nữ nông thôn gánh chịu những mất mát, đau khổ của chiến tranh.
Những làng quê tên gọi nôm na : làng Liềm, làng Diều, làng Cát, làng Mây,
làng Diền... hoặc một làng vô danh : làng
xưa. Những con người làng là những người bình dị :
Người về sau cuộc chiến tranh
Huân chương bỏ túi lại thành nông dân
Người
về
Đó là một người mẹ cả đời tần tảo, chờ chồng, hi sinh vì con cái :
Cầm lòng một bát cơm nâu
Dưới chân nước cóng , trên đầu mưa bay
Mẹ tôi như nhánh mạ gầy
Hóa thân làm bát cơm đầy nuôi tôi
Miếng trầu không dám mặn vôi
Sợ đôi má đỏ người đời gièm pha
Tình mẹ
Đó còn là một người thím qua chiến tranh, chồng
mất, các con hi sinh:
Một đời trăm trận bão giông
Thím tôi bỏm bẻm trầu không, lặng
nhìn...
Thím tôi
Một người bà như bao bà cụ thôn quê, nơi nào cũng
có :
Bà,
bà ơi, cơn lũ năm nào
Bà
cõng cháu như con nhện cõng trứng trèo qua ngọn cỏ
Trèo
qua mùa đông trèo qua mùa hạ
Trèo
qua nỗi khổ hi hóp bà cười
Bà ơi
Nhà thơ đã cất lên tiếng nói của họ, băn khoăn nỗi
băn khoăn của họ, những con người mộc mạc, hiền lành chỉ biết hi sinh trong
chiến tranh, xong cuộc chiến lại trở về đồng ruộng :
Cắm
cây mạ giữa đất cằn làm tin
Nguôi
ngoai sức ép bom mìn
Giờ
thêm sức ép đồng tiền… càng đau
Chân
què thập thễnh theo trâu
Người về
Trong khi đó, những kẻ giàu sang thì lại chỉ là
những tên gian lận, khai man mà thành ra quan chức, rồi bán mua quyền
chức :
Ai
giờ đệm gấm giàu sang
Khai
man lí lịch, khai man tình đời
Bán
mua quyền chức một thời…
Đồng đội ơi
Là người con của nông thôn, của quê lúa, nhà thơ
bao giờ cũng lo lắng, băn khoăn về quê, về
những người làm nông nghiệp « Sống với đất, chết lại hàm cạp đất/
Mụn và chằng kim không kín mảnh vai gầy » ( Làng xưa và mẹ) :
Cây
đa đội nón đứng chờ
Cánh
đồng lọ mọ đói no mất còn
Quê cũ
Một nông thôn
với bao nhiêu chuyện đổi thay, phức tạp chứ không bình yên
từng như thế bao đời. Bây giờ làng có những kẻ lật mặt như trở bàn
tay :
Có
thằng hai mặt đến chơi
Rủ
làm dịch vụ, nói lời nhân tâm
Việc
xong đá bạn xuống hầm
Thạch Sanh
Và biết bao
chuyện đổi thay đã len vào ngõ hẻm, hang cùng của một làng quê bình dị :
Đã
nghe nói chuyện sang hèn
Đã
nghe đút lót, đỏ đen thương trường
Người
thua đề, kẻ vỡ phường
Đêm
đêm kín cổng cao tường thèm nhau
Tả thực
Thơ Xuân Đam được yêu thích, nâng niu vì anh
« nói về cái nghèo, vất vả , lam lũ, lấm lem, cả những đau thương
do thiên tai, địch họa, do những bất công trong đời sống xã hội làng đem lại
cho người dân quê nhỏ nhoi, hiền hòa và cam lòng » ( Đỗ Trọng Khơi – Lời
tựa).
Trở lên là những điều chủ yếu trong phần thơ
Rượu quê ( thơ lục bát) và Rượu lửa ( thơ tự do).Nhưng thơ Xuân Đam không chỉ
có thế. Một mảng nổi trội của thơ anh là
thơ vui, thơ hài hước. Tôi muốn nhắc đến phần Rượu cười. Con người phải
lạc quan lắm, yêu đời lắm và có khiếu hài hước lắm mới có thể vượt lên hoàn
cảnh, đứng trên hoàn cảnh để mà cười. Thơ Xuân Đam cười bao chuyện dở khóc dở
cười trong cuộc đời. Và trước hết, anh cười chính mình. Cũng giống như Tú
Xương, Yên Đổ xưa tự trào mình trước. Phần thơ cười cho thấy ngòi bút tung tẩy
và cái duyên hài hước của Xuân Đam. Không biết bao lần anh diễu mình, diễu con
người khác đời của mình ở hình hài, ở tính tình thi sĩ :
Người
ta nên giá nên danh
Anh
thì phấn đấu thành anh – buồn cười
Ngỏ
Chân dung tự họa theo lối hí họa của anh :
Mò
vào thơ phú loanh quanh
Bất
tài trong cuộc chiến tranh ngôn từ
Tôi
Không ít lần nhà thơ tự nhận mình là Thi sĩ nhì
nhằng, thi nhân tỉnh lẻ, thi sĩ nhôi nhai, chữ
nghĩa lem nhem :
Ta là thi sĩ nhôi nhai
Nhênh nhang thơ phú lai rai khóc cười
Thi sĩ
Nhà thơ cười cái việc làm thơ của mình, cười các
thi hữu khi say một tấc lên giời, cười văn hóa phong bì, cười « ma
người », cười chuyện báo hiếu, cười chuyện vợ hai, chuyện mất trộm, chuyện
mua ti vi « vô tuyến tàng hình », chuyện ông giáo nghèo vợ con kì
kèo, ôm giáo án và cái bụng đói lên giảng « Bước đường cùng », rồi
chuyện giải thưởng, chuyện đại hội văn nghệ…
Có bút pháp của Bút Tre, có cái nhẹ nhõm, thâm
thúy của Nguyễn Khuyến, có cái riết róng của Tú Xương, có cả chất trào lộng của
Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan. Nhưng tất cả đều nhuần nhuyễn trong giọng
điệu Xuân Đam, người viết « Di chúc cho các vợ » và « Dự thảo di chúc cho con ».
Xin dẫn ra vài ví dụ :
-
Thơ anh vô vị nhạt phèo
Hội thơ chưa cấp « hộ
nghèo » hội viên
Hộ nghèo
-
Mai về mà tắm ao nhà
Bỏ
thêm nắm muối cũng là…Đồng Châu !
Tắm biển
-
Cô nào dự định lấy chồng
Chọn « nhà thơ giả »
thì không việc gì
Tôi tự tử
-
Đang làm một gã bầy hầy
Có gì một cái biến ngay ông gì
Ma người
Chắc chắn là nhờ tiếng cười này mà Xuân Đam thân
với bao người và cũng vì vậy mà giải tỏa những bức bí, vất vả, nghèo túng của cuộc sống nhiều gian nan, phức tạp.
Tập
sách còn bao gồm những tạp văn trong phần Lợn đất ơi. Phần này cho thấy sức
viết của Xuân Đam. Một số bài có lẽ tác giả làm thơ trước rồi mới viết thành
tạp văn và ngược lại. Những tản văn cũng khá giàu chất thơ và gợi nhiều suy
ngẫm.
Phần
cuối sách là Xuân Đam với bạn bè và bè bạn với Xuân Đam.
Có 34 người ủng hộ tài chính để ra tập sách này.
Và có đến 66 lượt người được Xuân Đam tặng thơ. Nhà thơ cũng viết một số bài về
thơ của bạn. Nhưng nội dung chính
của phần này là những bài thơ tặng Xuân
Đam, những bài viết đánh giá, phân tích thơ Xuân Đam. Tất cả đều minh chứng
rằng Xuân Đam được bạn bè văn chương yêu mến, quý trọng. Và trong một
chừng mực nhất định, nó giúp bạn đọc không chỉ
miền quê lúa, mà của cả nước hiểu thêm những giá trị thơ văn mà một nhà thơ suốt
đời sáng tạo say mê.
Hà Nội,
5/8/2015
.
Thơ hay thì không bao giờ có biên giới, nó sẽ bay đến khắp mọi nơi. Và nó cũng không thứ bậc, không hàm cấp.
Trả lờiXóaThơ hay không chết bao giờ
Mặc cho thơ dởm vật vờ nổi trôi.
Cám on đã ghé trang và chia sẻ! Thơ hay không phụ thuộc vào hội viên hay không hội viên, chấp hành hay không chấp hành, già hay trẻ...
XóaCháu nhớ hình như chú Xuân Đam có bài thơ thương vợ thì phải
Trả lờiXóa