QUÊ HƯƠNG TRONG
"TUYỂN TẬP THƠ HẢI DƯƠNG 1945-2005"
Nguyễn Thị Lan
1. Bất cứ
nhà văn nào cũng có một vùng đất để "thâm canh", quê hương là mảnh
đất đầu tiên với những kỷ niệm sâu đậm nhất để nhiều nhà văn khai thác.
Đọc "Tuyển tập thơ Hải Dương
1945-2005" (NXB Hội Nhà văn, 2005) cảm nhận đầu tiên của độc giả là tập
thơ đầm đìa những ký ức về quê hương. Tuyển tập là tiếng gọi thì thầm, tha
thiết trong những chuyến trở về quá khứ, trở về tâm linh, trở về cố hương của
sáu mươi người làm thơ, những người con của xứ Đông là hội viên Hội Văn học
Nghệ thuật Hải Dương.
2. Quê
hương là gì? Là tồn tại khách quan của sự phát triển sinh tồn nhân loại. Quê
hương, nếu nhỏ được hiểu là gia đình, gia tộc, xóm làng; nếu lớn trở thành
thành thị, quốc gia, thậm chí toàn bộ quê hương là nhân loại. Theo thời gian,
theo sự trải nghiệm của đời người, quê hương được mở rộng cả chiều kích không
gian và thời gian.
Ở đây trong khuôn khổ một bài viết
nhỏ, người viết chỉ đề cập đến quê hương trong phạm vi hẹp: gia đình, gia tộc,
xóm làng. Quê hương đó với "cảnh quê, tình quê". Quê hương đó hiện ra
đẹp như "hạt ngọc của ký ức".
Trước hết đó là cảnh.
Một vùng quê ở đồng bằng Bắc Bộ
trong "Tuyển tập thơ Hải Dương 1945-2005" hiện ra bằng những nét đặc
trưng với đồng làng xanh đến tận chân trời, với sông nước mênh mang, với cây đa
bến nước sân đình, với mái chùa cổ kính...
Trong không gian nghệ thuật đó, ký
ức của người xa quê tràn ngập những âm thanh và màu sắc: tiếng gà báo sáng quen
thuộc, tiếng sáo diều ngân vang, tiếng võng trưa hè, tiếng lá tre xào xạc,
tiếng rá vỗ cầu ao, tiếng gà trưa tao tác... và có khi cả tiếng cau rơi. Rồi
màu sắc của những bông hoa đồng nội quê kiểng: hoa xoan, hoa khế, hoa bìm bìm
tím biếc, hoa dâm bụt, hoa lựu đỏ, hoa cải vàng, hoa cau trắng...
Trong ký ức của những người đi xa,
lòng nhớ quê có khi bắt đầu từ những vật tầm thường nhất, từ những cảnh bình dị
quen thuộc nhưng hết sức gần gũi đáng yêu: một con đê ven sông, một quán nước
đầu làng, một đường thôn quấn quýt rơm rạ, một phiên chợ nghèo, một mái nhà
tranh, một chiếc ang sành đựng nước, một rặng tre ngà, một ngọn muống non tơ,
một con chuồn chuồn ớt. Có khi cảnh hiện ra ấm áp và thơ mộng: một ánh nắng
quê, một chiếc cò chớp cánh...
Quê hương đó còn là tình.
Hải Dương, mảnh đất phên dậu phía
đông kinh thành Thăng Long có tên gọi "Xứ Đông", từ xưa đã nổi tiếng
là vùng đất "địa linh nhân kiệt", một vùng văn học, một vùng đất
thượng võ. Trong lịch sử, nhiều bậc anh hùng hiền triết, đức cao vọng trọng của
đất Việt đã tìm về đây dựng nghiệp, lập danh, lập ngôn. Hải Dương, nơi sinh ra
những nhà khoa bảng, những thần đồng thi ca, những thi nhân với bao áng văn
chương bất hủ làm rạng rỡ thi đàn nước nhà.
Trong "Tuyển tập thơ Hải Dương
1945-2005" đã bao lần cái tên "Hải Dương", "Xứ Đông"
vang lên yêu thương, trìu mến, tự hào.
Đấy là lời gọi xứ Đông tha thiết của
nhà thơ Thế Dũng:
"Xứ Đông ơi! Tôi hát đón thơ về
Dẫu giây lát cũng là lời dứt ruột
Để tỏ lòng thăm thẳm giữa hồn quê!"
Xứ Đông, đó là quê chung của người
tỉnh Đông. Nhưng
quê hương là gì? Trong định nghĩa của nhà thơ Nguyễn Xuân Bối, quê hương là
"Nơi sinh ta":
"Đấy là nơi dù ở tận
cùng trời
Hay cuối đất vẫn mơ về
muôn thuở
Đấy là nơi có ông bà tiên
tổ…
Giỗ, tết về ta quỳ gối
dâng hương"
"Đấy là nơi trăm nhớ
nghìn thương
và: ...
"Trong tim ta nơi ấy hoá mặt trời."
Đó là một định nghĩa giản dị mà sâu
xa về danh từ "quê hương".
Còn nhà thơ Bùi Hải Đăng, quê hương
là nơi bắt đầu của tuổi thơ, là nơi đi về khi tuổi già xế bóng, là nỗi nhớ của
cả đời người..
"Là nơi nuôi dưỡng tuổi thơ
Là nơi chân chậm mắt mờ về đây"
...
và "Làng là nơi nhớ mỏi mòn trong tôi…"
(Làng)
Trong niềm hoài hương của những
người xa quê thì nỗi nhớ về tuổi thơ là một trong những tình cảm sâu sắc, bởi
vì trở về với ký ức tuổi thơ là trở lại với chính mình, một thuở tâm hồn còn
hồn nhiên trong sáng.
Chính vì vậy, chỉ một tiếng gà ở
"phố trưa" cũng sống dậy trong tâm hồn nhà thơ Phạm Trọng Tuấn cả một
"hồn quê", cả một quá vãng tươi đẹp của thuở thiếu thời.
"Thiết tha lắm - tiếng gà ơi
Tôi vừa tìm thấy thuở tôi ngày nào
Lung linh đốm lửa bờ ao
Con chuồn chuồn ớt thắp vào hồn quê."
(Hồn
quê)
Với nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhớ về
quê hương đồng nghĩa với nỗi nhớ con sông quê. Quê hương nhà thơ nằm bên dòng
sông Kinh Thầy, dòng sông đó bao lần đi vào thơ Khoa hồi bé. Và đây là dòng
sông trong nỗi nhớ của kẻ xa quê:
"Một bác chài lặng lẽ
Buông câu trong bóng chiều
Bỗng nhiên con cá nhỏ
Nhảy bên thuyền như trêu"
…"Ôi cánh buồm nhỏ bé
Biết bay về nơi đâu?"
(Bên
sông Kinh Thầy)
Bức tranh sông quê đẹp một cách tĩnh
lặng, không ồn ào, phảng phất chất Đường thi như bài "Giang tuyết"
của nhà thơ đời Đường, Liễu Tông Nguyên. Cảnh như lòng người thật yên ả, thanh
bình. Trong bức tranh đó, ta "đọc" được lòng yêu quê hương thật sâu
đậm của nhà thơ.
Cũng với tình yêu quê hương, nhà thơ
Văn Duy - người con của đất Kinh Môn lại yêu cả cỏ cây quen thuộc:
"Đêm nằm nghe tiếng cau rơi
Cứ thương cây đứng giữa trời tái tê."
(Nghe tiếng cau rơi)
Sâu hơn cả tình yêu thương, ở Văn
Duy đó còn là lòng ơn nghĩa với quê hương, với mái tranh nghèo. Lời thơ anh
chân thành, cảm động:
"Chỉ là vách đất mái tranh
Mà nên tổ ấm mẹ dành cho tôi"
..."Mái
tranh ơi - cả cuộc đời
Thiêng liêng tôi hát những lời rạ rơm"
(Mái
tranh)
Viết về quê hương, nhà thơ Tiêu Hà
Minh lại có cảm hứng khác, đó là cảm hứng về giọt nắng quê. Với anh, ánh nắng
quê đã "sưởi ấm" lòng đứa
con xa. Tiêu Hà Minh có những câu thơ đầy ân tình:
"Một ngày nắng quê đi qua
Một ngày bao nhiêu còn mất
Nơi hồn ta thiêng liêng nhất
Là nơi còn mãi nắng quê..."
(Nắng
quê)
Trong những bài thơ viết về quê
hương của các nhà thơ Hải Dương, bài "Chợ quê" của Hà Cừ là một trong
những bài "neo" vào tâm trí bạn đọc hơn cả. Anh "vẽ" cảnh
chợ quê nghèo thật ấn tượng:
"Chênh vênh mái lá bên đường
Ào ào ngọn gió bụi vương trắng bờ…"
Có những câu thơ ám ảnh làm nên một
"thương hiệu" Hà Cừ:
"Chợ quê con tép cũng gầy
Con cua, con cá dính đầy bùn tươi."
Không có tình thương yêu, sự cảm
thông chân thành không thể có những câu thơ như thế.
Và cái "chợ quê" nghèo ấy đã trở thành biểu tượng của quê hương, là
"đốm lửa thiêng" trong suốt
cả cuộc đời tha hương của nhà thơ.
"Chợ quê - một đốm lửa thiêng
Cháy trong tôi suốt chặng đường ngày xa."
3. Quê
hương, một khoảng lặng bình yên nhất trong tâm hồn mỗi người. Đọc những dòng
thơ viết về quê hương của các nhà thơ xứ Đông trong "Tuyển tập thơ Hải
Dương 1945-2005" ta như được khẽ chạm vào cái khoảng lặng bình yên mát
rượi và trong lành ấy, tâm hồn ta trở nên mát mẻ và thanh thản. Đó chính là
hạnh phúc, một thứ hạnh phúc đơn sơ giản dị mà đậm đà truyền thống của mỗi con
người đất Việt.
Hải
Dương, mùa Hạ năm 2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét