NHỮNG TRANG VIẾT CÔNG PHU, TÂM
HUYẾT
CỦA NHÀ NGHIÊN CỨU, PHÊ BÌNH
VĂN HỌC CHUYÊN NGHIỆP
Đọc Văn chương Nghệ thuật và Thẩm mĩ
tiếp nhận- Nguyễn Ngọc Thiện,
NXB Hội Nhà văn 2015.
Nguyễn Thị
Lan
(Hội Văn
học Nghệ thuật tỉnh Hải Dương)
1. PGS. TS. Nhà văn Nguyễn Ngọc
Thiện gây cho tôi ấn tượng mạnh về sức làm việc của ông. Ngoài công việc của
một Tổng biên tập Tạp chí Diễn
đàn Văn nghệ Việt Nam, một ủy viên “Hội đồng Lý luận – Phê bình Văn học
Nghệ thuật Trung ương”, cho đến nay Nguyễn Ngọc Thiện đã in trên 60 đầu sách,
trong đó có 6 cuốn in riêng, 21 cuốn chủ biên, 36 cuốn in chung. Một khối lượng
sách đáng nể phục của một cây bút giàu năng lượng.
Đáng chú ý là, trên sáu chục đầu
sách ấy, tất cả đều là sách Nghiên cứu phê bình. Không giống nhiều bạn đồng
nghiệp khác, Nguyễn Ngọc Thiện chỉ chuyên viết lý luận phê bình.
Chúng ta đều biết, viết lý luận
phê bình mà chuyên tâm được là điều rất khó. Đây là công việc vừa “khó”, vừa
“khô”, vừa “khổ”. Nó đòi hỏi sự tích lũy. Chẳng thế mà một nhà phê bình Đức đã
viết một cách hình tượng, dí dỏm: “Nhà phê bình là độc giả thuộc loại “nhai
lại”. Vì vậy “anh ta phải có nhiều hơn một cái dạ dày”. Tiền đề của sự thành
công của người nghiên cứu phê bình là: “tư liệu phải cao như núi” (V.I. Lê nin).
Ngoài sự tích lũy, có kiến văn, nhà nghiên cứu phê bình phải có những phẩm chất
khác: Niềm say mê đọc viết; tỷ mỷ, công phu, chắc chắn; tinh tế trong năng lực
cảm thụ thẩm mỹ; nhạy bén, công tâm, thẳng thắn trong khen chê… khác hẳn công
việc của nhà sáng tác thơ, truyện… Nói điều này để thấy tinh thần lao động khoa
học hết mình, rất đáng trân trọng của PGS. TS. Nhà văn Nguyễn Ngọc Thiện.
Được đào tạo bài bản ở Trường Đại
học Tổng hợp – một trường đại học danh tiếng của nước ta, tốt nghiệp được về
Viện Văn học năm 1967; qua Đức tu nghiệp, tốt nghiệp Tiến sĩ (Loại A) tại Cộng
hòa dân chủ Đức năm 1987; 10 năm sau (1997) là hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam;
và cũng 10 năm sau (2007) Nguyễn Ngọc Thiện nhận nhiệm vụ Tổng biên tập Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam,
tiền thân là Tạp chí Văn Nghệ (cơ quan ngôn luận của Hội Văn Nghệ Việt Nam,
thành lập năm 1948 ở chiến khu Việt Bắc). Suốt gần nửa thế kỷ, Nguyễn Ngọc
Thiện là một nhà nghiên cứu cần mẫn, có bề dày thâm niên học vấn, có quá trình
trải nghiệm một đời văn.
2. Văn chương Nghệ thuật và Thẩm mỹ
tiếp nhận là cuốn sách in
riêng thứ 6 của Nguyễn Ngọc Thiện. Sách dày 424 trang, khổ 14,5 x 20,5cm. Đây
là một công trình khoa học công phu, giàu tính thẩm mỹ, và mang rất nhiều tâm
huyết của tác giả. Sách tập hợp những thành quả mà Nguyễn Ngọc Thiện đã dày
công nghiên cứu trong 5 năm qua (2010-2015), đã được công bố tại các hội thảo
khoa học quốc gia và trên các sách, báo, tạp chí Trung ương.
Sách gồm 3 phần: Phần I: Tiểu
luận, phê bình Văn chương Nghệ thuật Việt Nam hiện đại; Phần II: Ma Văn Kháng
- Đời văn và tác phẩm; phần III: Về báo chí Văn nghệ.
3. Phần I gồm 17 bài. Tác giả đã
dành quá nửa số trang trong cuốn sách (trang 13-232) để luận bàn xoay quanh
những vấn đề văn học, nghệ thuật; về các tác giả, tác phẩm văn chương Việt Nam
hiện đại “nhìn dưới góc độ của sự đọc chuyên nghiệp và thẩm mỹ tiếp nhận”.
(Lời tác giả)
Bạn bè đồng nghiệp thường gọi
Nguyễn Ngọc Thiện là nhiều “nhà” trong một “nhà”, một tác gia”. Ở phần I này,
PGS, TS. Nhà văn Nguyễn Ngọc Thiện trước hết là một nhà khoa học xã hội nhân văn nghiên
cứu lý luận phê bình chuyên nghiệp trong
những tiểu luận có tính chất lý luận hàn lâm như: “Đề cương về văn hóa Việt Nam và vấn đề dân tộc hóa tiếng nói và chữ
viết”; “Vấn đề người đọc – tiếp nhận trong lý luận tiểu thuyết ở Việt Nam từ
đầu thế kỷ XX cho đến nay”; “Phê bình văn học – Bạn đồng hành cùng người
đọc và nhà văn”; “Thực trạng phê bình văn học, nghệ thuật hiện nay”;
vv…
Là một nhà nghiên cứu lý luận văn
học, PGS. TS. Nhà văn Nguyễn Ngọc Thiện đã nêu những vấn đề quan trọng, trong
đó có những ý kiến tổng quan và sâu sắc, đảm bảo độ sâu của học thuật mang tính
chuẩn mực của một văn phong hàn lâm về thực trạng văn học nghệ thuật Việt Nam
hiện đại. Và từ những bài nghiên cứu đó, độc giả còn “đọc” được những phẩm chất
đáng quý của người nghiên cứu: có phông văn hóa rộng với kiến văn rộng rãi uyên
thâm. Đơn cử một ví dụ:
Bàn về vấn đề người đọc, một đối
tượng quan trọng trong lí thuyết tiếp nhận, trong bài “Vấn đề người đọc –
tiếp nhận trong lý luận tiểu thuyết ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho đến nay”
(trang 22-72) tác giả đề cập hàng loạt các tên tuổi từ đầu thế kỷ XX; từ các
tác giả viết tiểu thuyết: Nguyễn Trọng Quản, Trần Thiên Trung cho đến tên tuổi
các nhà nghiên cứu của phê bình: Phạm Quỳnh, Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Hải Triều,
Thạch Lam, Vũ Bằng, Nhất Linh, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn
Trung, Hoàng Trinh, Lê Ngọc Trà, Huỳnh Như Phương, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Thanh
Hùng, Trương Đăng Dung, Phương Lựu, Trần Đình Sử… PGS. TS. Nhà văn Vũ Nho, một
nhà lý luận phê bình, đã in hơn 100 cuốn sách, đồng nghiệp của Nguyễn Ngọc
Thiện đã phải thán phục: “Nguyên cái việc đọc cho hết trước tác của các tác
giả, rồi lẩy ra những ý kiến quan trọng về người đọc cũng đòi hỏi công phu và một sức đọc ghê gớm” chưa kể đến
việc theo dõi, hội thảo, tóm tắt ý kiến của các thành viên trong cuốn sách “Đổi
mới tư duy tiểu thuyết”.
Bài viết “Vấn đề người đọc –
tiếp nhận trong lý luận tiểu thuyết ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho đến nay”
là một bức tranh khái quát, tổng quan về vấn đề “người đọc”, là một đóng góp
quan trọng của tác giả Nguyễn Ngọc Thiện.
Sau này, khi đọc đến phần II của
cuốn sách, Vũ Nho cũng phải khâm phục về “một công việc tử công phu”, “một việc
sáng tạo tốn nhiều công sức và
trí não”, và cả “những dụng
công của người viết”.
Phê bình là câu chuyện của sự
khám phá, phát hiện và khẳng định những giá trị mới.
Ngoài những trang viết về Ma Văn
Kháng (tác giả dành hẳn ở phần II), trong phần I tác giả đã có những trang viết
đầy ngưỡng mộ về những nhà nghiên cứu phê bình – các bậc trưởng lão đáng kính trong
giới trí thức tinh hoa của nước ta như viện sĩ Hoàng Trinh “nhà lý luận phê
bình văn học hàn lâm”, như giáo sư Hoàng Xuân Nhị “Nhà nghiên cứu, dịch
giả cần mẫn, nhà giáo tận tụy”, như giáo sư Đinh Gia Khánh – người thầy khả
kính của Nguyễn Ngọc Thiện ở trường Đại học Tổng hợp mà ông may mắn được thụ
giáo và gần gũi, Nguyễn Ngọc Thiện đã học được “bài học về tư duy thực chứng và
đối thoại trong nghiên cứu văn học” của
người thầy của mình. Phần
I còn có những trang viết xác đáng, tinh tế về việc “xóa nhòa ranh giới giữa
thơ ca và văn xuôi trong thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn”, về Nguyên Hồng với
cuốn “Những ngày thơ ấu” mà Nguyễn Ngọc Thiện cho là “cuốn hồi ký – tự
truyện đặc sắc mở đầu cho một thể tài của văn học Việt Nam hiện đại”. Đặc
biệt là những trang viết đầy trân trọng, khuyến khích về thành quả đầu tay của
bốn nhà nghiên cứu phê bình văn học nữ, trẻ cả tuổi đời và tuổi nghề, đang dấn
thân vào công việc khoa học đầy thách thức và khó khăn như: Trần Thị Việt
Trung, Cao Thị Hồng, Đỗ Phương Thảo, Lê Thị Bích Hồng.
Qua những bài viết về những “chân
dung văn học” ấy, độc giả thấy hiện ra “chân dung” của tác giả, một nhà phê
bình thẳng thắn vô tư, đam mê văn chương, có tấm lòng khiêm tốn học hỏi lớp
người đi trước và khuyến khích tôn trọng lớp người đi sau.
Là một nhà giáo, nhà khoa học tham gia
đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ, tác giả đã đề cập vấn đề khá “nóng” đó là việc hướng
dẫn khóa luận, luận văn, luận án. Vị PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện trong bài “Xung
quanh việc hướng dẫn người học Văn chọn đề tài Khóa luận, Luận văn, Luận án”,
đã thẳng thắn chỉ ra thực trạng đào tạo đại học, sau đại học ngành Văn những
năm gần đây “đáng báo động về chất lượng đào tạo ở các khâu tuyển sinh, chọn
đề tài nghiên cứu tùy tiện, không theo quy hoạch chặt chẽ (ví dụ như: về thơ
đương đại với nhóm Mở miệng, thơ Tân hình thức, thơ Thanh Tâm Tuyền, Du Tử Lê,
văn nghiệp Võ Phiến, truyện ngắn Đỗ Hoàng Diệu…” (trang 225-228). Đó là
những nhận xét thẳng thắn, đầy nhiệt huyết và trách nhiệm của một người thầy.
Cùng chung vấn đề đào tạo sau đại
học, thể hiện quan điểm của mình, Nguyễn Ngọc Thiện có bài “Từ một công
trình ngụy khoa học, lệch lạc về tư tưởng học thuật” của Đỗ Thị Thoan (Nhã
Thuyên), cũng cho thấy bản lĩnh của người viết. Không như một vài người còn mơ
hồ, ngộ nhận cho rằng đây là một luận văn “khoa học”, Nguyễn Ngọc Thiện thẳng
thắn định danh đây là “một công trình ngụy khoa học”, “tôn vinh sự lệch
chuẩn,chống đối lại thể chế và trật tự xã hội, bêu riếu những điều cao cả,
thiêng liêng với toàn dân tộc”. “Chứa đầy rẫy những sai trái lệch lạc về
quan điểm tư tưởng học thuật, và lộn xộn trong phương pháp nghiên cứu”, ông
“hoan nghênh và đồng tình với những tiếng nói thiện chí, có trách nhiệm cảnh
báo về sự nguy hiểm của công trình mang danh nghiên cứu khoa học…”, ông
thẳng thắn chỉ ra những sai lầm, thiếu sót của luận văn ở các khâu (…). Rồi
việc áp dụng các lí thuyết của nước ngoài một cách khiên cưỡng trong khi chưa
hiểu thấu đấu. Những kiến nghị của người viết với các cấp các ngành về: đổi mới
chọn đề tài và hướng dẫn chọn đề tài, với bộ máy tuyển sinh, với các cơ sở đào
tạo, với người hướng dẫn, với hội đồng chấm luận án… vừa tỷ mỷ cặn kẽ, vừa có
lý có tình của một nhà giáo tận tụy, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục đào tạo.
4. Phần II gồm 12 bài (trang 233-352),
tập hợp các bài phỏng vấn, nghiên cứu phê bình trước nay của tác giả Nguyễn
Ngọc Thiện về nhà văn Ma Văn Kháng, với một số danh tác thuộc truyện ngắn, tiểu
thuyết, hồi ký, bút ký - tiểu luận của ông. Phần này hoàn toàn có thể đứng độc
lập thành một chuyên luận, một cuốn sách riêng về Ma Văn Kháng. Nhưng ghép vào
đây không thừa bởi nhan đề cuốn sách là: Văn
chương, Nghệ thuật và Thẩm mỹ tiếp nhận có
thể bao gồm cả ba phần của cuốn sách.
Có người từng nhận xét Nguyễn
Ngọc Thiện là “chuyên gia về Ma Văn Kháng” hay “nhà Ma Văn Kháng học” bởi ông
viết nhiều và sâu về Ma Văn Kháng và ông cũng từng hướng dẫn Nghiên cứu sinh
làm Luận văn Thạc sĩ, Luận án Tiến sĩ về Ma Văn Kháng.
Ma Văn Kháng là một “Tác gia
văn học lực lưỡng” (chữ dùng của Nguyễn Ngọc Thiện), một nhà văn tài danh
và nhà tiểu thuyết, truyện ngắn hàng đầu của văn học Việt Nam hiện đại. Ma Văn
Kháng từng vinh dự được tặng giải thưởng Văn học Đông Nam Á (1998), giải thưởng
Văn học Nhà nước (2001), giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2012).
Tập trung nghiên cứu, giới thiệu về cuộc đời, tác phẩm của Ma Văn Kháng cho ta
thấy cách chọn lọc tác giả, tác phẩm đúng đắn của Nguyễn Ngọc Thiện. Đọc,rồi
nhận xét, đánh giá chân giá trị của mỗi tác phẩm, định vị một chân dung văn học
mới trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại cho ta thấy tầm vóc, bản lĩnh học
thuật của nhà nghiên cứu, phê bình Nguyễn Ngọc Thiện.
Các bài viết của Nguyễn Ngọc
Thiện ở phần II này thật đa dạng. Không chỉ viết khái quát về một “Tác gia
văn học lực lưỡng”, “Một cây bút văn xuôi sung sức, một đời văn sáng tạo”,
một “Tiểu thuyết về đề tài dân tộc và miền núi của Ma Văn Kháng”, Nguyễn
Ngọc Thiện còn nhận xét, đánh giá những tác phẩm cụ thể;có khi là một truyện
ngắn hay (Trăng soi sân nhỏ), một tập truyện ngắn (Một mối tình si),
một tiểu thuyết đề tài xã hội “Ngược dòng nước lũ”, một tiểu thuyết đề
tài công an hình sự (Bóng đêm), có khi là một cuốn Hồi ký – Tự truyện (Năm
tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương), một tập tiểu luận và bút ký về nghề
văn (Phút giây huyền diệu). Ở thể loại sáng tác nào của Ma Văn Kháng tác
giả Nguyễn Ngọc Thiện không chỉ “điểm” những tác phẩm tiêu biểu mà còn tìm ra
những đóng góp của Ma Văn Kháng về nội dung tư tưởng, nghệ thuật và thể loại.
Có thể nói,những bài tiểu luận về
Ma Văn Kháng của Nguyễn Ngọc Thiện đã giúp người đọc và giới chuyên môn có thêm
những tư liệu, giúp vào việc mở rộng kiến văn, tìm hiểu sâu hơn về một tác giả
có nhiều tác phẩm xuất sắc, đóng góp vào tiến trình văn học Việt Nam hiện đại.
Nguyễn Ngọc Thiện đã viết về nhà
văn mà mình yêu mến, kính trọng với tất cả tâm hồn, tình cảm. Và đằng sau những
trang viết mềm mại, tinh tế, bay bổng và không kém phần sâu sắc ấy, ta thấy một
nhà nghiên cứu, nhà văn Nguyễn Ngọc Thiện với chất văn nghệ,
say đắm văn chương, say đắm cái Đẹp, cái Thiện.
5. Phần III gồm 9 bài (trang
353-417) được kết cấu theo hai chủ đề. Đây là những phát biểu của Nguyễn Ngọc
Thiện xoay quanh việc nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp và hiệu quả của
báo chí văn nghệ Việt Nam đương đại, từ một người mười năm hoạt động thực tiễn
và tác nghiệp tận tụy gắn bó với Tạp chí Diễn
đàn Văn nghệ Việt Nam. Lập luận của tác giả phần này sắc bén, cập nhật,
hiện đại. Phần này, Nguyễn Ngọc Thiện bộc lộ tư chất của một nhà báo, nhà quản lí báo chí.
“Về Tạp chí Diễn đàn Văn Nghệ Việt Nam ” (3 bài). Với tư cách là một Tổng biên
tập một tạp chí có truyền thống từ năm 1948 của Hội Văn nghệ Việt Nam, ông hồ
hởi trước thành tựu của tạp chí suốt hơn 20 năm qua (từ 1991), ông đau đáu với
việc đổi mới, nâng cao chất lượng ấn phẩm ngôn luận của Liên hiệp các Hội Văn
học Nghệ thuật Việt Nam; ông nghiêm túc đánh giá về nó, mong mỏi “tăng cường
dung lượng và chất lượng bài viết lý luận phê bình văn nghệ trên tạp chí”.
Về “Thực trạng và mấy vấn đề
về báo chí văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới” (6 bài), tác giả chỉ ra
những bất cập của báo chí văn nghệ “tình trạng xuống cấp và sa sút tính
chuyên nghiệp của báo chí văn nghệ” và mong muốn khắc phục tình trạng “hoạt
động lý luận phê bình văn học nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn sáng tác”
và “phấn đấu xây dựng hệ thống lý luận văn học nghệ thuật Việt Nam”,
trên cơ sở đó ông đặt ra những yêu cầu bắt buộc đối với báo chí, tất cả vì sự
nghiệp báo chí chất lượng cao “hay và đẹp”. Đấy là những trang viết đầy
tâm huyết xuất phát từ lòng nhiệt thành, mang tính xây dựng của một người làm
báo, yêu mến và có trách nhiệm với công việc của mình.
6. Tập phê bình tiểu luận Văn chương Nghệ thuật và Thẩm mỹ
tiếp nhận của PGS. TS. Nhà
văn Nguyễn Ngọc Thiện là cuốn sách công phu, tâm huyết. Tác phẩm là một minh
chứng cho cái Tâm, cái Tầm, cái Tài của một nhà khoa học nhân văn chân chính;
là một đóng góp mới, quan trọng và thiết thực vào đời sống nghiên cứu và phê
bình văn học Việt Nam hiện đại. Chắc chắn sẽ có rất nhiều học sinh, sinh viên,
giáo viên, các nhà nghiên cứu và độc giả yêu mến văn chương thích thú khi đọc
từng trang sách…
Hải Dương
đầu thu năm 2015.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét