TRUYỆN ĐỒNG THOẠI CỦA
NGUYỄN THỊ HẢI VÂN
(Đọc “Bầu trời xanh” - Hải Vân - NXB Kim Đồng 2005)
Nguyễn Thị Lan
Đồng thoại là một thể loại đặc biệt
của văn học có sự kết hợp nhuần nhuỵ giữa hiện thực và ước mơ. Thế giới nhân
vật trong truyện đồng thoại rất phong phú và đa dạng: nhân vật có khi là người
nhưng thường là động vật, thực vật hoặc những vật vô tri vô giác khác được
người nghệ sỹ thổi vào đó một linh hồn, một tính cách của con người.
Nội dung đồng thoại có đề cập đến
con người nhưng chủ yếu về thế giới tự nhiên: cây cối, chim muông... bằng biện
pháp "nhân cách hoá" khiến cho chúng biết đi đứng, nói năng, có tâm
hồn. Chính vì vậy đồng thoại rất được trẻ em ham mê.
Nội dung đồng thoại có tính chất xã
hội, có tính tư tưởng cao, có sức gợi cảm mạnh, dễ mang ngụ ngôn, triết lý, dễ
gợi cho trẻ liên tưởng. Ý nghĩa xã hội của đồng thoại lắng sâu vào tính cách
của nhân vật và chủ đề của truyện.
Ở Việt Nam, tác giả có nhiều thành
công nhất trong loại truyện đồng thoại dành cho tuổi nhỏ là Tô Hoài. Từ trước
Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài đã có những truyện đồng thoại nổi tiếng như
"Dế mèn phiêu lưu ký", "Võ sỹ bọ ngựa", "Đám cưới
chuột" và sau này "Chim chích lạc rừng", "Những mẩu chuyện
nhỏ".
Trên đất Hải Dương, người viết đồng
thoại sớm và có nhiều thành công phải nói đến cây bút nữ Thuỳ Dương. Từ những
năm 80 của thế kỷ trước Thuỳ Dương được độc giả biết đến và yêu mến trước hết
từ những truyện đồng thoại "Chim bông và sẻ nâu" (In chung NXB Kim
Đồng 1986), "Trong hộp kẹo" (Hội VHNT Hải Hưng 1987) là những tập
truyện đồng thoại đã bước đầu khẳng định tài năng của cây bút này.
Tiếp bước đi của người chị, Nguyễn
Thị Hải Vân lại viết truyện đồng thoại. Có thể nói Hải Vân đã tìm thấy ở thể
loại này rất nhiều điểm thích hợp và ở đó chị đã thể hiện khá thành công sở
trường cây bút của mình.
“Bầu trời xanh” là tập truyện đồng
thoại của Hải Vân viết cho lứa tuổi thiếu niên nhi đồng. Đây là một tập truyện
đồng thoại khá hay, để lại ấn tượng tốt
đẹp cho cả độc giả nhỏ tuổi và độc giả lớn tuổi.
Thế giới nhân vật trong truyện đồng
thoại của Hải Vân là cả một thế giới chim chóc, súc vật, cây cỏ, hoa lá. Độc
giả nhỏ tuổi có thể gặp ở đây những chú chuồn chuồn ngô, bươm bướm, chim sâu,
chim yến; rồi ngan, sóc, thỏ, gà, dê; rồi những cây cỏ mật, cây thông, cây
leo..., cả những vật vô tri vô giác như màu vẽ, những sợi tơ vàng, những nốt
nhạc, các hiện tượng trong tự nhiên như nắng, mưa, gió, bông hoa tuyết...đều
được bàn tay người viết “phù phép” làm cho chúng có linh hồn, có tính cách như
con người.
Cách giới thiệu và miêu tả nhân vật
của Hải Vân thật hấp dẫn, sinh động. Người đọc thích thú vì đi vào thế giới
nhân vật truyện đồng thoại của chị được gặp những nhân vật giàu cá tính, ngộ
nghĩnh. Chẳng hạn con gà là con vật nuôi hết sức quen thuộc, trong những truyện
của Hải Vân nó hiện ra với tư cách một “chị gà mái” tất bật, chăm chỉ,
giàu tính đàn bà. Con thỏ trở thành “bác thỏ” chăm chỉ lao động. Con sóc
trở thành “chú sóc nâu” nhanh nhẹn hoạt bát hay giúp đỡ mọi người. Con
ngan trở thành “chú ngan hay ghen tị” cô độc, đố kỵ.
Với một khả năng quan sát tinh tế,
sự hiểu biết khá tường tận về đặc điểm giống loài của mỗi con vật, Hải Vân đã
miêu tả thật tinh vi, sắc sảo thế giới nhân vật của mình. Thành công của tác
giả là ở chỗ miêu tả các con vật với đặc điểm của nó và gán cho từng con vật
những tính cách của con người nhưng lại hết sức phù hợp với những đặc điểm đó.
"Nhanh như sóc" là thành ngữ dân gian. Chú sóc trong truyện "Sóc
Nâu" của Hải Vân hiện ra thật đáng yêu với phẩm chất nhanh nhẹn, hay giúp đỡ
người khác. Gà cần cù chăm chỉ thì chị gà mái trong truyện cũng tất bật suốt
ngày làm ổ để đẻ trứng "xung quanh
bề bộn nào trứng, nào rơm...". Con thỏ hay thích ăn cà rốt, thế là
trong truyện của Hải Vân "Bác thỏ
đang thu hoạch cà rốt trên cánh đồng...".
Có được một thế giới nhân vật sống
động như thế không chỉ vì người viết có tài quan sát mà còn bởi tình cảm của
người viết. Đọc truyện của Hải Vân có cảm giác chị rất yêu mến, gắn bó với
thiên nhiên, tạo vật. Chị yêu những con vật bé nhỏ (và cũng là yêu trẻ - bởi vì
qua thế giới “nhân vật” ấy ta thấy bóng dáng của những em nhỏ). Tình cảm của
người viết là hồn hậu, yêu mến, bao dung. Chị cúi xuống lắng nghe "tiếng lích chích" của con
chim sâu, một "tiếng gọi khe
khẽ" của cây cải bé xíu; cảm nhận khí vị của hương thơm cỏ mật trong
cái đại tự nhiên đang sinh sôi và một đốm lửa nhỏ của "tia nắng". Chính vì vậy truyện của Hải Vân giàu chất
thơ. Chất thơ đó được toát lên từ tâm hồn tinh tế, nhân hậu, trong lành của
người viết.
Các “nhân vật” của Hải Vân thường
được chia thành những cặp nhân vật tương phản nhưng không đối lập: bông trà mi
và cỏ mật, chim hoạ mi và chim sâu, cây thông và dây leo, chuồn chuồn ngô với
ong, tằm, kiến. Về phẩm chất đó là những cặp nhân vật tốt và chưa tốt; đáng yêu
và chưa đáng yêu. Sự tương phản ở đây là sự tương phản giữa cái đẹp và cái chưa
đẹp chứ không phải là tương phản giữa cái thiện và cái ác. Phải chăng để hướng
thiện cho các em Hải Vân không đề cập đến cái ác, không nói về cái ác. Người
viết không muốn làm tổn thương những tâm hồn rất dễ bị tổn thương.
Trong những cặp nhân vật ấy tác giả
dành tình cảm yêu thương cho những nhân vật bé mọn: một nốt nhạc trầm, một chú
chim sâu, một cây cỏ mật, một màu nâu... Những "nhân vật" này thường
mặc cảm với mình: chú chim sâu "buồn
bã" vì mình hót không hay như hoạ mi, Cỏ Mật "buồn lắm" vì không đẹp rực rỡ như Trà Mi, nốt nhạc trầm
(Nốt Đồ) "xấu hổ, tủi thân" vì
thấy giọng "ồ ồ" của mình
không hay bằng các bạn. Trẻ em hay xúc động, hay thương. Truyện của Hải Vân đã
khêu gợi sự rung động, tình thương, lòng nhân ái ở các độc giả nhỏ tuổi với các
nhân vật.
Giống như trong truyện cổ tích,
truyện của Hải Vân có chút buồn nhưng nhìn chung kết thúc đẹp: chú chim sâu
quay trở lại ngôi vườn cũ bắt sâu, chú thấy mình "có ích cho mọi người biết bao" và "chim sâu cười hạnh phúc"; cây cỏ mật lại lặng lẽ toả
hương "một mùi hương dìu dịu, ngọt
ngào"; nốt nhạc trầm lại sung sướng trở về phím đàn quen thuộc bởi chú
biết rằng "lẫn trong những âm thanh
trầm bổng du dương có những âm thanh của nốt nhạc trầm lặng lẽ".
Cái kết thúc “có hậu” ấy phù hợp với ước mơ
công bằng của các em, tạo cho các em niềm tin vào cuộc đời, thắp sáng trong các
em ước mong một cuộc sống tốt đẹp, hòa hợp, thân ái...
Truyện của Hải Vân viết cho lứa tuổi
giàu bản năng nhưng chị không viết một cách bản năng dễ dãi, nặng về cái đẹp,
cái vui mà lãng quên cái bên trong. Chị chăm lo chủ đề, tính tư tưởng, triết lý
của truyện để đem đến cho truyện những tư tưởng, tình cảm lớn. Chính vì vậy
truyện của chị được trẻ thích và người lớn cũng ưa, cũng có chuyện để ngẫm
nghĩ. Mỗi truyện là một bài học cho trẻ nhỏ - những bài học nhẹ nhàng nhưng
không kém phần thấm thía sâu sắc, nó góp phần hình thành nhân cách, năng lực
cho các em. Trẻ em “chơi mà học”, “học mà chơi” Hải Vân đã khéo “gài” những bài
học vào câu kết của truyện. Trong truyện "Hộp màu vẽ" các em sẽ thấy
rằng "màu nào cũng đáng quý, mỗi sắc
màu đều mang đến một vẻ đẹp riêng cho cuộc sống và cần phải biết gìn giữ nâng
niu những gì mình có". Còn trong truyện "Hạt thóc nhỏ" sau
khi để chim con gục đầu vào lòng mẹ với vẻ ân hận, tác giả viết: "Nó đã hiểu ra rằng nếu biết gom góp
những cái nhỏ bé thì sẽ có được những điều lớn lao." Đó là bài học quý
giá cho chim con bước vào đời. Rồi bài học về lòng tốt vô tư "giúp ai một việc gì thì không nên khoe
công như thế thì việc làm của mình mới đáng quý" (Sóc Nâu); bài học về
tình yêu tự do: "Sống vất vả nhưng
tự do còn hơn sống nhàn nhã với thân phận kẻ tù đày" (Bầu trời xanh).
Truyện đồng thoại của Hải Vân nhìn
chung có kết cấu chặt chẽ, hoàn chỉnh. Nhân vật chính diện thường đáng yêu, có
lòng tốt, có vẻ đẹp tinh thần. Nhân vật tương phản với nhân vật chính diện tuy
có nhược điểm nhưng nhìn chung biết hướng thiện.
Viết cho trẻ thơ, Hải Vân đã chọn
cách viết phù hợp với sự tiếp nhận của lứa tuổi: bút pháp giản dị, gọn ghẽ, câu
văn ngắn gọn phần lớn là câu đơn; ngôn từ chọn lọc và rất kiệm lời. Có cảm
tưởng người viết rất công phu gọt đẽo từng từ, từng chữ để mang lại vẻ đẹp giản
dị, trong sáng cho mỗi câu chuyện. Truyện "Sóc Nâu" là một truyện
tiêu biểu về phương diện này, cả truyện không một ngôn từ lặp, một chi tiết
thừa. Cũng là lời nói và hành động cảm ơn Sóc Nâu đã giúp đỡ mình Bác Thỏ thì "xoa đầu nó và tấm tắc khen: Sóc Nâu
giỏi quá! Ngoan quá!"; chị Gà Mái thì "mừng lắm cảm ơn Sóc Nâu rối rít: Cảm ơn Sóc Nâu nhé!",
Bác Dê thì "xúc động ôm Sóc Nâu vào
lòng: "Sóc Nâu giỏi quá! Tốt bụng quá."
Và bao trùm lên cả là giọng kể của
người kể chuyện. Đó là một giọng văn có duyên và luôn biến hoá sinh động: lúc
thì châm biếm, dí dỏm, hóm hỉnh; lúc thì hồn nhiên, tươi mát, trữ tình. Nếu
viết cho trẻ phải đẹp và vui thì một số truyện của Hải Vân được cả hai.
Trong lao động nghệ thuật tưởng như
chỉ có người sáng tạo lựa chọn thể loại, đề tài. Tuy nhiên thể loại, đề tài
cũng biết “chọn mặt, gửi vàng”. Viết cho trẻ em, người viết phải giữ cho được
tâm hồn trong sáng, cảm xúc tươi mới, con mắt xanh non, biết cách hòa đồng với
các em, hiểu được tâm lý con trẻ ở các độ tuổi. Ở những truyện thành công, Hải
Vân đã có được những yếu tố đó.
Truyện đồng thoại của Hải Vân có tác
dụng không nhỏ trong việc hình thành nhân cách các em ngay lúc còn là “mầm
non”. Mỗi truyện như một “tia nắng nhỏ” thắp lên đốm lửa yêu thương,
nhân ái trong tâm hồn trẻ thơ. Đó là phần thưởng quý giá không dễ gì có được
với người viết.
Hải Dương, đầu Thu 2005
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét