NHỮNG KỶ NIỆM TIẾNG NGA
Bất cứ ai học ngoại ngữ ít hay nhiều đều có một vài kỷ niệm về thứ tiếng mình học. Với tôi cũng vậy, tiếng Nga để lại không ít chuyện “nhớ mãi như in”.
Tôi
làm quen với tiếng Nga lần đầu là tháng 11 năm 1966. Ba năm học cấp 3,
tôi học tiếng Hán (thường gọi là Trung văn). Lúc bấy giờ nói được mấy
tiếng “Lảo shư hảo”, “Ủa shư Jue nản rẩn” (Chào thầy, Tôi là người Việt
Nam), chúng tôi được coi như “nhà thông thái” của làng. Khi bước chân
vào khoa Toán trường Đại học Sư phạm Việt Bắc mới mở, hơn một trăm chàng
trai, cô gái, tay thì học tiếng Hán, tay thì học tiếng Nga. Ngoại ngữ ở
khoa Toán là tiếng Nga. Bởi vậy, những tay nào học Nga ở cấp 3 tha hồ
mà líu lo như chim “Zđrátxtơvuiche! Xibaxibo! Đoviđanhia!” (Xinchào! Cám
ơn! Tạm biệt!). Còn chúng tôi, những tay học Trung văn thì “điếc đặc”!
Chúng tôi bắt đầu lần mò làm quen với Đa (vâng), Đôm (ngôi nhà), Xlon
(Con voi)…Thật chẳng khác nào những tay nửa câm, nửa điếc, ngọng nghịu
với một thứ tiếng khác xa tiếng mẹ đẻ.
Có một ông thầy giảng bài 4 tiết liền mà cả trăm đứa sinh viên giỏi
lẫn không giỏi, không một đứa nào hiểu thầy nói về cái gì. Tôi không bao
giờ gặp chuyện này trong đời đi học. Mặt khác, tôi tiếc cái công học
Trung văn kha khá của mình, lại thích đọc truyện nữa, nên cuối cùng, tôi
đã quyết định bỏ khoa Toán để vào khoa Văn. Tiếng Nga với tôi chỉ là
“Đa” (có), “Nhét” (không). Ở khoa Văn, suốt ngày lại tụng niệm tiếng
Hán. Trong khi những tay ở phổ thông học tiếng Nga bò lăn ra đánh vật
với tiếng Hán thì tôi ung dung cùng với Phạm Đức Thông làm “đầu lĩnh”
ngoại ngữ này. Thông đã từng viết thư bằng tiếng Hán cho các bạn Trung
Quốc. Chúng tôi tiếp tục thư từ và Vương Mĩ Vân, cô bạn Trung Hoa viết
thư, gửi cả ảnh cho tôi và Thông nữa. Khi máy bay Mỹ bị bắn rơi ở gần
chỗ chúng tôi sơ tán, bộ đội Trung Quốc kéo đến đầy khu vực. Tôi cùng
Phạm Đức Thông và những tay khá tiếng Hán tiếp xúc với họ. Hóa ra các
anh lính Tàu này không nói được tiếng Bắc Kinh. Nhưng chúng tôi “bút
đàm” với nhau. Lúc đó mấy chàng Tàu văn của khoa vô cùng thích thú và cả
kiêu hãnh nữa.
Vũ Nho tác giả bài viết
Khi học ở khoa
Văn, tôi cũng biết đến tiếng Nga do Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn dạy ngôn ngữ
học đem ra làm ví dụ. Thật ngạc nhiên và ấn tượng vì GS Cẩn đọc cái ví
dụ “Tôi đọc sách”. Ông đọc nhấn mạnh “ I-a Tri tai u Knigu”. Các tay
biết tiếng Nga giải thích là phải đọc “mềm” thành Knhigu, nhưng không
hiểu sao thầy Tài Cẩn lại đọc thế! Tôi còn “tiếp xúc” với tiếng Nga khi
anh Trần Quang Vinh, tốt nghiệp Đại học Tổng hợp về Khoa Văn dạy Văn học
Nga. Anh ôm cuốn từ điển Nga-Nga của Ozhegov dày cộp với một lô sách
tiếng Nga làm cho anh chàng chỉ biết “Đa”, “Đôm” là tôi vô cùng ngưỡng
mộ. Tôi còn được nghe truyện tiếu lâm về chia động từ tiếng Nga. Ví như
thì “tương lai” của động từ “liubitch” (yêu) là “đi lấy chồng (lấy vợ)”
???; Thầy giáo gọi anh chàng lớ ngớ bắt chia động từ “Ku đa” (thật ra
là trạng từ) theo cách chia đặc biệt như động từ “idchi” (đi). Anh
chàng rụt rè chia: Ngôi thứ nhất Ku đu, ngôi thứ hai Ku đit, ngôi thứ ba
số ít Ku đâu, ngôi thứ ba số nhiều Ku đút… Nghe các vị biết tiếng Nga
nói và cười ngặt nghẽo, chàng mít đặc tiếng Nga là tôi khi ấy cũng chỉ
biết nhếch miệng cười theo…
Rồi các cán bộ trẻ của Khoa Văn cũng phải học tiếng Nga nếu muốn mở
rộng chân trời hiểu biết. Các bạn Lộc Phương Thủy, Nguyễn Minh Thuyết,
Bàn Tiến Tân đã theo một lớp chuyên tu tại chức học 9 tháng do giáo viên
của phòng Khoa học nhà trường dạy. Tôi chính thức học tiếng Nga khóa
sau đó vào năm 1975. Khổ cho thân tôi là các bạn đều được nghỉ mọi công
việc để tập trung học. Còn tôi, không được nghỉ vì không có người dạy
thay, phải “vừa học vừa dạy”. Hai người dạy tiếng Nga cho lớp tôi khi đó
là thầy Hùng - một người thầy nghiêm túc có phần khắt khe, và cô Đoàn
Bảo, một cô giáo tài hoa, xinh đẹp, thông minh. Học viên là cán bộ
của các khoa trong trường và một số anh chị ở trường Đại học Nông lâm
sang học nhờ.
Do quyết tâm và say
mê, cộng với có năng khiếu nên chỉ sau một học kì, các anh chị đã học
Nga văn 3 năm ở phổ thông, nhiều năm ở Đại học, đều bị tôi bỏ lại sau.
Nghĩa là tôi trở thành “thủ lĩnh” của lớp. Tôi vô cùng biết ơn sự nghiêm
khắc của thầy Hùng và sự tài hoa của cô Bảo. Các thầy cô đã giúp tôi
nắm vững ngữ pháp, tích lũy từ vựng và bắt đầu tập dịch những truyện
ngắn Nga được đưa vào giáo trình. Tôi kết thúc lớp tiếng Nga với điểm
cao nhất lớp. Và có một niềm tin mạnh mẽ vào khả năng của mình. Không
lâu sau khi kết thúc lớp học, tôi tự dịch truyện ngắn Nhật Bản “ Những
chiếc lá anh đào và cây sáo” gửi báo Phụ nữ Việt Nam. Được báo đăng, tôi
vô cùng phấn chấn, càng say mê tiếng Nga hơn nữa. Tôi mua những cuốn
sách mỏng ở cửa hàng ngoại văn Hải Phòng, Hà Nội (khi đi công tác) và
coi mình là “mèo nhỏ” chỉ bắt “chuột con”. Tôi dịch say mê. Chỗ nào
vướng thì “thỉnh giáo” cô Đoàn Bảo. Kết quả là bản dịch cuốn sách
mỏng “Luống cày Vitca” của tôi được nhà xuất bản Kim Đồng chấp nhận in
năm 1979.
Lúc
đó Khoa Văn Việt Bắc có “phong trào” đi thi nghiên cứu sinh. Các bạn
tôi là Nguyễn Minh Thuyết, Lộc Phương Thủy và Bàn Tiến Tân đều đã thi và
đỗ. Tôi đi thi năm sau cùng với thầy Cao Xuân Thử, và chúng tôi cũng
đỗ.
Về học tiếng Nga ở trường Đại
học Ngoại ngữ Thanh Xuân, tôi học rất “nhàn nhã”. Thầy Bảo, cô Oanh và
cô Đầm Vân dạy chúng tôi. Buổi sáng lên nghe giảng và làm xong bài tập.
Buổi chiều đem truyện ngắn của M. Gorki ra dịch sang tiếng Việt. Cả một
tập truyện ngắn của M. Gorki tôi dịch ngon lành. Tôi còn tham gia “thi
nói giỏi” với sinh viên và nghiên cứu sinh năm đó (1978 -1979). Kết quả
là tôi được giải Ba. Tuy vậy, hầu như chúng tôi không được tiếp xúc với
giáo viên người Nga. Cả khóa học một năm chỉ có một buổi tiếp xúc, nói
chuyện với một nam giáo viên trẻ từ Đại sứ quán Liên Xô.
Kết
thúc lớp học, chúng tôi chưa sang Nga ngay mà còn về nhà chờ đợi. Trong
khoảng thời gian đó, tôi dịch tiểu thuyết “Chú bé tóc sáng” của một
nhà văn nước cộng hòa trong liên bang xô-viết, ông được coi là M. Gorki
của dân tộc mình.
Khỏi phải nói về
niềm vui của tôi khi được sang Nga để học nghiên cứu sinh. Trên tàu hỏa
từ Mát (Mátxcơva) về Len (Leningrat) tôi đã mang tiếng Nga ra thực hành
với những người Nga cùng khoang tàu. Thông thường, những nghiên cứu
sinh mới sang thường nhờ một người cũ dẫn đến giới thiệu với GS hướng
dẫn cho chắc ăn. Tôi thì làm quen với Valeri nghiên cứu sinh cùng tổ,
rồi tự đến gặp GS và trao đổi công việc. Việc nắm vững tiếng Nga cho tôi
sự tự tin. GS hướng dẫn cũng tin và “nể” anh học trò. Bởi khi ấy, tại
thành phố có hiệu sách tiếng Việt. Tôi đã mua cuốn sách mỏng “Misa
Laxkin” do tôi dịch, gửi nhà xuất bản Kim Đồng, in 1982, có bày bán ở
hiệu sách để tặng GS hướng dẫn. Nhờ thạo tiếng Nga, tôi viết xong luận
án khá sớm và đi lao động kiếm tiền. Tôi dịch bài báo giới thiệu tiểu
thuyết “Đảo hoang” của Tô Hoài gửi cho nhà văn. Ông đem in báo Văn Nghệ.
Tôi cũng dịch 2 truyện cổ tích của Dgianhi Rôdary (Italia) có 3 kết
thúc, đăng trọn 2 trang báo Văn Nghệ số Tết năm 1982. Đồng thời tôi còn
dịch những cuốn sách mà tôi thấy hay. Cuốn “Giữa trời chiếc bánh ga-to”
của nhà văn Italia đã nhắc trên, cuốn “Truyện cổ tích kể qua điện
thoại”, “ Gip trong vô tuyến truyền hình” cũng của ông và một phần cuốn
“Truyện cổ tích” của M. Xantycov-Shedrin được dịch trong thời gian
này.
Về
nước tôi tiếp tục tình yêu tiếng Nga của mình bằng việc dịch. Nhiều
bài tiếng Nga được dịch in trên các báo và tạp chí (Phụ Nữ Việt Nam,
Tiền Phong, Thiếu Niên tiền phong, Người Hà Nội…). Tôi đã công bố 8 cuốn
sách dịch từ tiếng Nga là: Luống cày Vitca (1979), Misa Laxkin (1982),
Truyện cổ tích kể qua điện thoại (1987) của nhà xuất bản Kim Đồng,
Truyện cười dân gian Tác Ta dịch chung với Bàn Tiến Tân (1988) của
nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Cha mẹ và con cái (1989) của nhà xuất bản
Giáo dục, Có một chiếc đĩa bay - Giữa trời chiếc bánh ga-tô (1990,
2011, 2016) của nhà xuất bản Kim Đồng, Truyện cổ tích dành cho người
lớn (2004, 2008) của nhà xuất bản Kim Đồng, Chào các em! (2001, 2006)
của nhà xuất bản Đại học quốc gia và lần sau của nhà xuất bản Giáo dục.
Cuốn truyện “Hành vi”, tập hợp các truyện ngắn viết về hành vi, kèm
theo lời bình dành cho học sinh, tôi dịch (bác Nguyễn Ngọc Nhị biên tập)
đã được nhà xuất bản Giáo dục cho vẽ tranh minh họa, nhưng sau lại
không in. Cuốn “Tất cả trông cậy vào đằng ấy” tôi dịch (anh Trần Đình
Nam biên tập, nhà xuất bản Kim Đồng) đã đánh máy thành 3 bản, nhưng sau
vì khan hiếm giấy cũng không được in. Các cuốn khác như Mối quan hệ các
phương pháp dạy Văn (dịch chung với Cao Đức Tiến, Trần Thế Phiệt), Tiếu
lâm Gabrovo, Truyện ngắn của M. Gorki tôi công bố toàn bộ hoặc một
phần trên trang Blog cá nhân…
Nhờ
dịch tiếng Nga, khi về Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, tôi thân với
Trần Hậu và quen biết PGS, dịch giả Lê Sơn. Chúng tôi hay tụ tập ở quán
Bà Tình uống rượu vodka và thưởng thức món lòng lợn tiết canh nổi tiếng.
Khi anh Lê Sơn công bố cuốn sách “Một nền văn hóa biết xấu hổ”, tôi đã
viết bài giới thiệu trên báo Văn Nghệ. Tiếng Nga đã cho tôi quen biết
với các anh chị Thúy Toàn, Đoàn Tử Huyến, Đăng Bẩy, Vũ Thế Khôi, Đức
Mẫn, Lê Nhân, Trần Định, Nguyệt Vũ, Vân Chi, Nguyễn Huy Hoàng, Nguyễn
Thị Kim Hiền…
Các sự kiện quan
trọng như giới thiệu Văn học Việt Nam ra nước ngoài, giao lưu với các
nhà văn Nga thăm Việt Nam, công bố bản dịch “Nhật kí Đặng Thùy Trâm” ra
tiếng Nga, ra mắt bản dịch sách “Gia tộc tổng thống V. Putin”, Công bố
bản dịch “ Truyện Kiều” ra tiếng Nga , ra mắt các bản dịch sách của F.
Đoxtoevxki và các nhà văn Nga khác… tôi đều tham dự nhiệt thành.
Năm
2010, tôi quay lại nước Nga trong đoàn nhà văn Việt Nam. Tôi đã về đúng
tổ bộ môn, gặp và trao qùa cho GS, TS Chủ nhiệm khoa kiêm Chủ nhiệm bộ
môn, chụp ảnh lưu niệm. Bà GS khen tôi xa Nga lâu năm mà vẫn nói trôi
chảy. Tôi gặp nhà báo Nadejda Paina ở chân tượng A. Pushkin trong thành
phố Mátxcơva, và mua cuốn sách tự phát hành của bà. Rồi tôi dịch một
phần của cuốn sách đó về người chắt trai của Đại thi hào Nga A. Pushkin
(đã in báo Văn Nghệ của Hội nhà văn Việt Nam). Tôi viết những kỉ niệm
của mình về A. Pushkin (đã in báo Văn Nghệ của Hội Nhà Văn VN). Một kỷ
niệm vui vui trong chuyến đi. Nhà văn Lê Văn Thảo rất khoái món “phô
mai” để nhắm rượu. Tôi thì lâu lắm không nói tiếng Nga và không thể nào
nhớ nổi tên cái món đó, tiếng Nga gọi là gì. Tôi liền nảy ra một “mẹo”
là mô tả với cô bán hàng trên tàu hỏa. Tôi nói với cô rằng tôi quên,
không biết tên món đó là gì, nhưng nó làm từ sữa, cũng giống “macxlo”
(bơ) song cứng hơn. Cô bán hàng reo lên: “xưr” đúng không? Tôi cũng reo
lên “Đúng rồi, chính nó” (pravino, ímenno!). Thế là tôi khoái chí mang
món “phô mai” về cho anh Thảo.
Gần
đây nhất, tháng 10 năm 2017, đi Vũng Tàu để viết về ngành Dầu Khí, tôi
lại dùng vốn tiếng Nga của mình để trao đổi với cha con Phó Chánh kỹ sư
E. Krupenco và X. Krupenco, các bạn Nga làm ở Vietsovpetro; hát các bài
hát Nga trong buổi giao lưu. Thật là một kỷ niệm đẹp trong nhiều kỷ
niệm đẹp về tiếng Nga, thứ tiếng của các nhà văn hóa, khoa học nổi tiếng
thế giới, thứ tiếng của một dân tộc thân thiện, hào phóng bậc nhất
trên Trái đất này.
VŨ NHO
(Bài tham gia cuộc thi viết “Kỷ niệm sâu sắc về nước Nga và tình hữu nghị Việt-Nga”)
Tin liên quan
Chép lại từ tạp chí BẠCH DƯƠNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét