vunhonb.blogspot.com Sau khi đăng bài "Thảo luận về Đồng dao cho người lớn" của Nguyễn Trọng Tạo, có 6 lời bình ( 18 tháng 7 năm 2018), tác giả Phạm Đức Nhì viết một bài trao đổi lại. Vì bài quá dài nên không thể đăng vào mục bình luận. Chúng tôi giới thiệu bài viết này. Cám ơn tác giả Phạm Đức Nhì đã thẳng thắn trao đổi.
Kính bác Vũ Nho,
Phần trả lời của tôi dài quá,
khó đưa vào chỗ bình luận.
Nhờ bác đưa thẳng vào
bài.
Cám ơn bác.
PĐNhì
Phạm Đức Nhì
Một Vài Tra Cứu Về Đặc Tính Của Vè
Để nói có
sách, mach có chứng, tôi đã vào một số trang Web Văn Học và ghi lại mấy nhận xét về đặc tính
của vè như sau đây:
1/
Theo Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, vè là
chuyện khen chê có ca vần.
2/ Những người
đặt
vè, bẻ
vè, nói vè phần
nhiều
thuộc
tầng
lớp
dưới
trong xã hội.
3/ Vè mang tính thời
sự,
các sự
kiện
trong quá khứ
ít được
vè quan tâm. Vè xuất
hiện
tức
thời,
nắm
bắt
nhạy
bén sự
việc,
sự
kiện,
ghi nhanh, rồi
truyền
đi để
gây dư luận.
4/
Vè xuất
hiện
nhằm
đáp ứng
sự
phản
ánh tức
thời
một
sự
việc,
sự
kiện,
ngôn ngữ
vè mộc
mạc,
đơn
giản,
không trau chuốt,
gọt
dũa, phần
lớn
các bài vè lại
có vận
mệnh
ngắn
ngủi.
5/ Phần lớn các bài vè lại có vận mệnh ngắn ngủi, thời gian cần thiết để đạt tới một hình thức hoàn chỉnh, trau chuốt ít có được.
Kết hợp lại cho dễ hiểu, những người nghiên cứu về vè, viết về vè có những nhận xét sau đây:
1/ Những người đặt vè, bẻ vè, nói vè phần nhiều thuộc tầng lớp dưới trong xã hội.
Vì là tầng lớp dưới của xã hội nên tác giả của vè về kiến thức và “tay nghề” văn chương thường non nớt nếu so sánh với các thi sĩ làm thơ. Ở cái thời vè phát sinh và
sau đó là phát triển, thi sĩ làm thơ phần nhiều thuộc giới khoa bảng, thành đạt trên đường học vấn. Hoặc nếu lận đận bước đường thi cử thì cũng là những Ông Đồ làu thông kinh sử, nắm vững quy luật sáng tác các thể loại kinh nghĩa, chiếu, biểu, phú, văn sách
… và đặc biệt là các loại thơ.
2/ Vè là chuyện khen chê có ca vần; chuyện xuất hiện tức thời, mang tính thời sự, tác giả nắm bắt nhạy bén sự việc, sự kiện, ghi nhanh rồi truyền đi để gây dư luận.
Mục đích của vè là truyền sự việc, sự kiện thật nhanh cho “kịp thời vụ”; giá trị nghệ thuật là thứ yếu, có thì tốt, không có cũng
không sao. Viết vè là kể chuyện bằng văn vần nên thường kể hết chuyện thì thôi, không
có đoạn kết. Nếu có thì cũng nhạt phèo, không gây
ấn tượng.
Thí dụ 1: Vè Rau. “Nghe vẻ nghe ve – Nghe vè các rau”, cứ thế kể đến loại rau cuối “Giục ngựa buông cương – Là rau mã đề” thì hết.
Thí dụ 2: Vè Chàng Lía
Bài vè rất dài (134 câu), âm điệu lục bát, à ơi nghe rất chán. Đoạn kết thì nhạt nhẽo, “có cũng như không”
Chuyện
Lía nay kể
như
y
Giúp vui cô bác một khi việc rồi
Đầu đuôi có thế mà thôi
Xin chào chư vị, quê tôi tôi về.
Giúp vui cô bác một khi việc rồi
Đầu đuôi có thế mà thôi
Xin chào chư vị, quê tôi tôi về.
3/ Ngôn ngữ vè mộc mạc, đơn giản, không có đủ thời gian cần thiết để đạt tới một hình thức trau chuốt, hoàn chỉnh.
“Đội bóng vè”, vì thời gian gấp rút, tiếp nhận cầu thủ một cách vội vàng, thiếu huấn luyện, thao dợt nên dàn cầu thủ thô ráp, xô bồ, trong khi “đội bóng thơ”, không bị áp lực thời gian, tuyển lựa cầu thủ kỹ càng hơn, được huấn luyện, thao dợt chung để có sự ăn ý với đồng đội, sau đó còn tuyển đi chọn lại trước khi ra sân thi đấu. Nói rõ hơn, “đội bóng vè” là đội thành lập vá víu để đá “chầu”, đá theo “phong trào”, “đội bóng thơ” là đội tuyển, đã có tính chuyên nghiệp..
Thêm vào đó, những thủ pháp nghệ thuật của thơ (ẩn dụ toàn bài, “Gợi, Không Kể”), những đấu pháp toàn đội (cấu tứ) đặc biệt để tạo bất ngờ, tăng sức hấp dẫn cho “lối đá” của các “đội bóng thơ” – do không đủ thời gian và trình độ của “huấn luyện viên” chưa “tới” – nên các “đội bóng vè” đành cho qua.
4/ Kết quả là phần lớn các bài vè có vận mệnh ngắn ngủi.
Tính thời sự là cốt tủy của bài vè. Rất nhiều bài vè, do mất tính thời sự, không còn “hợp thời”, rủ nhau đi vào quên lãng. Dĩ nhiên, cũng có những bài vè còn sống sót. Nhưng lý do để được sống sót phần lớn là nhờ tính lịch sử của những sự kiện, sự việc được lưu truyền (Vè Chàng Lía), cực hiếm có trường hợp do giá trị nghệ thuật của bài vè. Ngoài ra, một số vè còn đang được lưu truyền, cất giữ là để làm tư liệu, tài liệu trong giáo dục văn học, đặc biệt trong những tác phẩm nghiên cứu Văn Học Sử lớn, bao gồm những giai đoạn lịch sử mà vè được phát sinh và
phát triển.
Trích Dẫn Mấy Bài Vè
VÈ
RAU
Ve
vẻ vè ve
Nghe vè các rau
Thứ ở hỗn hào
Là rau ngành ngạnh
Trong lòng không chánh
Vốn thiệt tâm lang
Đất rộng bò ngang
Là rau muống biển
Quan đòi thầy kiện
Bình bát nấu canh
Ăn hơi tanh tanh
Là rau dấp cá
Có mẹ không cha
Rau má mọc bờ
Thò tay sợ dơ
Nó là rau nhớt
Ăn cay như ớt
Vốn thiệt rau răm
Sống trước ngàn năm
Là rau vạn thọ
Tánh hay sợ vợ
Vốn thiệt rau co
Làng hiếp chẳng cho
Đó là rau húng
Lên chùa thờ cúng
Thiệt dạ hành hương
Giục ngựa buông cương
Là rau mã đề
Nghe vè các rau
Thứ ở hỗn hào
Là rau ngành ngạnh
Trong lòng không chánh
Vốn thiệt tâm lang
Đất rộng bò ngang
Là rau muống biển
Quan đòi thầy kiện
Bình bát nấu canh
Ăn hơi tanh tanh
Là rau dấp cá
Có mẹ không cha
Rau má mọc bờ
Thò tay sợ dơ
Nó là rau nhớt
Ăn cay như ớt
Vốn thiệt rau răm
Sống trước ngàn năm
Là rau vạn thọ
Tánh hay sợ vợ
Vốn thiệt rau co
Làng hiếp chẳng cho
Đó là rau húng
Lên chùa thờ cúng
Thiệt dạ hành hương
Giục ngựa buông cương
Là rau mã đề
VÈ BÌNH DÂN HỌC VỤ
Lẳng lặng mà nghe
Cài vè học vụ
Đồng bào mù chữ
Ở khắp mọi nơi
Chiếm chín phần mười
Toàn dân đất Việt
Muôn bề chịu thiệt
Chịu đui, chịu điếc
Đời sống vùi dập
Trong vòng nô lệ
Hơi đâu mà kể
Những sự đã qua
Chính phủ Cộng hòa
Ngày nay khác hẳn
Đêm ngày lo lắng
Đến việc học hành
Mấy triệu dân lành
Còn đương tăm tối
Bị đời hất hủi
Khổ nhục đáng thương
Ngơ ngác trên đường
Như mù không thấy
Những điều như vậy
Không thể bỏ qua
Cài vè học vụ
Đồng bào mù chữ
Ở khắp mọi nơi
Chiếm chín phần mười
Toàn dân đất Việt
Muôn bề chịu thiệt
Chịu đui, chịu điếc
Đời sống vùi dập
Trong vòng nô lệ
Hơi đâu mà kể
Những sự đã qua
Chính phủ Cộng hòa
Ngày nay khác hẳn
Đêm ngày lo lắng
Đến việc học hành
Mấy triệu dân lành
Còn đương tăm tối
Bị đời hất hủi
Khổ nhục đáng thương
Ngơ ngác trên đường
Như mù không thấy
Những điều như vậy
Không thể bỏ qua
VÈ THỊT CHUỘT
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè thịt chuột
Đứa nào ở đó
Bắt nước cạo lông
Đứa nào ở không
Đi mua đồ nấu
Đứa nào xấu xấu
Xắt sả nạo dừa
Đứa nào không ưa
Thì đi chỗ khác
Kiên tâm một lát
Là có món ăn
Đừng làm lăng xăng
Người ta đàm tiếu
" Con chuột nhỏ xíu
Sáu bảy người ăn"
Cảm Xúc Trong Văn,
Thơ, Và Vè
Do thi sĩ ngày càng ít câu nệ về mặt hình thức nên khoảng cách giữa thơ và văn xuôi, có thể nói, ngày càng giống như sợi tơ mong manh, không rạch ròi như xưa. Nhưng có một sự khác biệt rất rõ nét – không thể nhập nhòe - là cảm xúc.
Nhiệm vụ chính của văn xuôi là chuyển tải thông điệp. Cảm xúc cũng có thể có đấy, nhưng chỉ là sản phẩm phụ, không có cũng không sao. Hợp đồng thương mại, án quyết của tòa là những thí dụ.
Còn với thơ, cảm xúc là cốt tủy. Thông điệp của thơ nhiều khi chỉ là cái cớ, là phương tiện để nhà thơ bày tỏ tâm trạng, cảm xúc của mình. Thiếu cảm xúc - thứ cảm xúc của cái tôi riêng tư - thơ sẽ trở thành một chủng loại khác chứ không còn là thơ nữa.
Riêng với vè, nó là văn vần nhưng khác văn xuôi thêm một điểm là tuyệt nhiên không có cảm xúc của cái tôi riêng tư. Người viết vè kể chuyện nhưng là kẻ bàng quan, đứng ngoài câu chuyện của bài vè.
Ba
Trạng Thái Tâm Lúc Làm Thơ
1/ Tranh cãi, tranh luận, phản biện, nói
lý lẽ:
Với tâm
thái này nếu tác giả biết đưa cái
tôi riêng tư vào
khung cảnh của cuộc tranh
cãi thì tác phẩm, dù có hơi khô khan, vẫn có
chút ít cảm xúc, nên vẫn là thơ. Ngược lại, nếu không
khéo, cứ sa đà vào lý, để cái tôi riêng tư đứng
ngoài làm kẻ bàng quan, thì tác phẩm sẽ là
“cái gì đó” chứ không phải là thơ.
Xin
cử 2 bài của Thái Bá Tân để làm
thí dụ.
MẮNG CON
Mày láo, dám khuyên bố
Mai không đi biểu tình.
Chuyện ấy có nhà nước,
Không liên quan đến mình.
Mai không đi biểu tình.
Chuyện ấy có nhà nước,
Không liên quan đến mình.
Mày nói y như đảng.
Không liên quan thế nào?
Nước là của tất cả,
Của mày và của tao.
Không liên quan thế nào?
Nước là của tất cả,
Của mày và của tao.
Biểu tình chống xâm lược,
Chứ có lật ai đâu.
Không lẽ mày không biết
Cái dã tâm thằng Tàu?
Chứ có lật ai đâu.
Không lẽ mày không biết
Cái dã tâm thằng Tàu?
Mày bảo có nhà nước.
Nhà nước hèn thì sao?
Mà ai cho nhà nước
Quyết việc này thay tao?
Nhà nước hèn thì sao?
Mà ai cho nhà nước
Quyết việc này thay tao?
Xưa đánh quân Mông Cổ,
Vua còn hỏi ý dân.
Sao không thấy nhà nước
Xấu hổ với vua Trần?
Vua còn hỏi ý dân.
Sao không thấy nhà nước
Xấu hổ với vua Trần?
Đành rằng thế mình yếu,
Phải thế nọ, thế này.
Nhưng ở đời, con ạ,
Mềm nắn, rắn buông ngay.
Phải thế nọ, thế này.
Nhưng ở đời, con ạ,
Mềm nắn, rắn buông ngay.
Bố biết con thương bố,
Lo cho bố, cảm ơn.
Con “biết sống”, có thể.
Xưa bố còn “biết” hơn.
Lo cho bố, cảm ơn.
Con “biết sống”, có thể.
Xưa bố còn “biết” hơn.
Chính vì khôn, “biết sống”,
Tức ngậm miệng, vờ ngây,
Mà thế hệ của bố
Để đất nước thế này.
Tức ngậm miệng, vờ ngây,
Mà thế hệ của bố
Để đất nước thế này.
Ừ, bố già, lẩn thẩn,
Nhưng vẫn còn là người.
Mà người thì biết nhục,
Biết xấu hổ với đời.
Nhưng vẫn còn là người.
Mà người thì biết nhục,
Biết xấu hổ với đời.
Mai biểu tình, thế đấy.
Bố không bắt con đi,
Nhưng cũng đừng cản bố.
Cản cũng chẳng ích gì.
Bố không bắt con đi,
Nhưng cũng đừng cản bố.
Cản cũng chẳng ích gì.
Rõ ràng ở đây có giọng tranh luận, nói lý lẽ, giọng bố “dạy” con. Nhờ đóng vai bố, Thái Bá Tân đã đưa được cái tôi riêng tư vào khung cảnh của bài Mắng Con. Bên cạnh lý, có tinh nên Mắng con đích thị là thơ.
HÔM NAY XỬ WILL NGUYỄN, KHÓ ĐẤY
Kể cũng khó cho đảng.
Biết xử thế nào đây
Chàng Việt kiều Will Nguyễn?
Vấn đề là thế này:
Nếu tha, đuổi về nước
Thì sẽ vướng đồng bào.
Rất nhiều người bị bắt.
Nhà nước định tính sao?
Vì không thể có chuyện
Cùng một “tội” như nhau,
Người thì được tha bổng,
Người bị giam tù lâu.
Rồi các bác sẽ thấy,
Will Nguyễn sẽ được tha.
Không tha Mỹ nó oánh.
Cho nên ở nước ta
Thực sự đếch có luật.
Cứ mềm nắn rắn buông.
Thích gì cứ làm ấy.
Nôm na là diễn tuồng.
Cũng may mà da mặt
Của chính quyền khá dày,
Nên sẽ không xấu hổ.
Thì vẫn thế xưa nay./-
Thái Bá Tân
(Mới lưu truyền trên mạng)
Ở bài này ông cũng phân bua,
cũng nói lý lẽ, nhưng cái tôi riêng tư lại đứng
ngoài khung cảnh của câu chuyện. Những điều ông
trình bày phát xuất từ “trí” chứ không
phải “tâm” nên Hôm Nay Xử Will
Nguyễn, Khó Đấy không có chất tình,
không phải là thơ. Theo tôi, nó cũng không phải là
vè. Là “cái gì đó” thì tùy độc giả chọn tên.
Như vậy gọi thơ của Thái Bá Tân là “vè thời đại” có
đúng không? Theo tôi, gọi thế là không đúng. “Thơ” Thái
Bá Tân có hai loại:
Loại đúng
là thơ như: Mắng Con,
Lời Nhắn Của Ông
Thiệu, Thương Dân Hà Nội Gốc … thì
phải gọi là thơ.
Loại
“không phải thơ” như: Nói
Thẳng, Trí Thức, Khẩu Hiệu, Gửi Bác
Trọng, Cách Chức, Không Muốn Mà Phải Nói,
Phạm Nhật Vượng,
Không Lấy Chồng Việt Nam,
Đừng Dây Với Việt Nam …
thì miễn đừng gọi nó là
thơ, còn gọi là “cái gì đó” thì tùy mỗi người.
2/ Chia sẻ cảm xúc, tâm trạng:
Đây
là tâm thái mà thi sĩ đã viết ra đại đa số những bài
thơ ta thường gặp. Tùy
“tay nghề”, tùy trình độ kỹ thuật thơ, tùy mức độ cao hứng, lượng cảm xúc
trong bài thơ nhiều ít khác nhau.
3/ Nổi điên lên, xả hết dồn nén,
uất ức, chất chứa trong
lòng (Get it off your chest):
Đây
là loại tâm thái mà người bình thơ mỏi mắt trông
chờ. Ở vào trạng thái
tâm này thi sĩ nói vung tít mẹt không còn giữ ý, giữ tứ, không
còn e ngại, sợ sệt. Cái
tôi văn hóa bị lùa đi chỗ khác chơi để cái
tôi đích thực trọn quyền đạo diễn bài
thơ. Nếu kỹ thuật thơ đạt tới một trình
độ nào đó, bài thơ sẽ có hồn, lời thơ sẽ là tiếng lòng
chân thật. Độc giả nếu may mắn đọc bài
thơ sẽ được vinh
dự giao tiếp với tác
giả bằng thứ Tiếng Người (viết hoa)
mà vì mải mê tự điều chỉnh mình
để phù hợp với cuộc sống của xã hội văn
minh, ông (bà) đã quên mất từ lâu. Bài thơ như thế đã đạt được phần thưởng cao
quý - được bước vào Bến Bờ Thơ Ca.
Chỉ có một số rất ít
bài thơ loại này như: Hồ Trường
(Nguyễn Bá Trác), Say Đi Em (Vũ Hoàng Chương),
Trái Tim Rao Bán (Đinh Thị Thu
Vân), Tạ Lỗi Trường Sơn (Đỗ Trung
Quân), Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc
(Nguyễn Duy) …
Vè
Thì Khác
Người viết
vè không tranh biện và cũng không xả bầu tâm sự. Họ vận dụng vốn kiến thức và
khả năng chọn chữ xếp vần giới hạn của mình nắm bắt nhạy bén sự việc, sự kiện, ghi nhanh rồi truyền đi để gây dư luận.
Kết Luận
Tôi không có ý phân định thắng thua với bác Vũ Nho nên chỉ trình bày một số góc cạnh của vấn đề để độc giả tự rút ra kết luận.
Cũng cần phải công nhận tôi đã sai khi viết “Trong vè ý tưởng bừa bộn”. Lỡ bấm vào chỗ “xuất bản” rồi nên khi đọc kỹ lại thấy sai cũng không sửa chữa được. Nhưng dù có sai vì lý do gì đi nữa thì cũng là sai. Bác Vũ Nho sửa lưng tôi là đúng.
Tuy nhiên, dù trong vè ý tưởng không bừa bộn đi nữa, về “thế trận chữ nghĩa”, đấu pháp toàn đội, vè vẫn không thể sánh với thơ. Tôi xin phép độc giả được lập lại lần nữa đoạn viết về sự khác biệt ấy.
“Đội bóng vè”, vì thời gian gấp rút, tiếp nhận cầu thủ một cách vội vàng, thiếu huấn luyện, thao dợt nên dàn cầu thủ thô ráp, xô bồ, trong khi “đội bóng thơ”, không bị áp lực thời gian, tuyển lựa cầu thủ kỹ càng hơn, được huấn luyện, thao dợt để có sự ăn ý với đồng đội, sau đó còn tuyển đi chọn lại trước khi ra sân thi đấu. Nói rõ hơn, “đội bóng vè” là đội thành lập vá víu để đá “chầu”, đá theo “phong trào”, “đội bóng thơ” là đội tuyển, đã có tính chuyên nghiệp..
Thêm vào đó, những thủ pháp nghệ thuật của thơ (ẩn dụ toàn bài, “Gợi, Không Kể”), những đấu pháp toàn đội (cấu tứ) đặc biệt để tạo bất ngờ, tăng sức hấp dẫn cho “lối đá” của các “đội bóng thơ” – do không đủ thời gian và trình độ của “huấn luyện viên” chưa “tới” – nên các “đội bóng vè” đành cho qua.
Trở lại Đồng Dao
Cho Người Lớn, theo Đỗ Trọng Khơi, nó
là bài đồng dao,
một loại vè. Nói như thế không
sai nhưng cũng chưa hoàn toàn chính xác. Sau khi
xem xét, soi mói, từng chữ, từng câu
cũng không tìm thấy tý cảm xúc nào từ cái
tôi riêng tư của tác giả nên
tôi có thể vững bụng nói
rằng nó là thứ cây dị chủng
trong vườn thơ. Còn
muốn đặt cho nó cái tên chủng loại gì đó
thì tùy mỗi người.
Một lần nữa, cám ơn bác
Vũ Nho đã cho tôi có cơ hội trao đổi với bác về một để tài lý
thú.
Anh Phạm Đức Nhì đã công phu tra cứu về thể loại VÈ. Nhưng công phu quá, anh lại bỏ quên bài "Đồng dao cho người lớn" của Nguyễn Trọng Tạo. Tôi không quá câu nệ vào những gì mà người ta đã viết thành sách này, sách kia. Nếu vè nghiêng về tự sự (kể chuyện), thì ĐDCNL có chuyện gì? Nếu người đặt vè là trình độ văn hóa thấp ( nói thế cũng là nói lấy được, vì khối ông quan, ông cử, ông tú về sống giữa dân chúng, họ vừa là tác giả THƠ, cũng lại là tác giả VÈ). Và tôi đố anh Nhì dám bảo tác giả Nguyễn Trọng Tạo là "văn hóa thấp". Nếu bảo tác giả vè không thạo "đấu pháp toàn đội" của THƠ, thì cũng không đúng với Nguyễn trọng Tạo, vì bản thân anh Tạo là nhà thơ có thành tựu. Nói tóm lại, anh Nhì có thể không thích bài ĐDCNL, đấy là quyền của anh. Nhưng cố chứng minh ĐDCNL là VÈ để chê bai thì không thuyết phục!
Trả lờiXóaVè Truyền Thống
Trả lờiXóa1/ Những người đặt vè, bẻ vè, nói vè phần nhiều thuộc tầng lớp dưới trong xã hội. Vẫn có một số “ông này, ông kia” nhưng rất ít.
2/ Vè là chuyện khen chê có ca vần; chuyện xuất hiện tức thời, mang tính thời sự, tác giả nắm bắt nhạy bén sự việc, sự kiện, ghi nhanh rồi truyền đi để gây dư luận.
3/ Ngôn ngữ vè mộc mạc, đơn giản, không có đủ thời gian cần thiết để đạt tới một hình thức trau chuốt, hoàn chỉnh.
4/ Kết quả là phần lớn các bài vè có vận mệnh ngắn ngủi.
Tôi xin phép được gọi những bài vè mang đặc tính này là vè truyền thống.
Đồng Dao Cho Người Lớn
1/ Nếu cắt mỗi câu làm hai thì ĐDCNL sẽ có nhịp bốn chữ. Đỗ Trọng Khơi viết “Đồng Dao của Nguyễn Trọng Tạo viết ở nhịp 8 chữ nhưng soi chẻ rạch ròi vẫn thấy cái dư khí của hồn bốn chữ dân gian” là có ý đó. Như vậy, ĐDCNL có hình thức là bài đồng dao.
2/ Đồng dao là một loại vè nên nếu bảo ĐDCNL có hình thức giống một bài vè cũng có thể đúng.
3/ ĐDCNL không có cái tôi riêng tư của tác giả (một đặc điểm của vè truyền thống) nên chắc chắn không phải là thơ. Lập luận cho rằng Nguyễn Trọng Tạo mượn hình thức đồng dao để làm thơ cũng không có chỗ đứng.
4/ Nhưng ĐDCNL cũng không phải vè truyền thống vì 3 lẽ:
a/ Nội dung không mang tính thời sự mà chỉ là một tập hợp “hổ lốn” những câu nói mang tính triết lý về cuộc đời.
b/ Tác giả không phải tầng lớp thấp trong xã hội
c/ Ngôn ngữ không thô ráp, mộc mạc mà tương đối trau chuốt, đẹp một cách sang trọng.
Như vậy, ĐDCNL không phải là thơ, có hình thức vè nhưng không phải là vè truyền thống, cũng không phải là “vè thời đại” như có người gọi “thơ” Thái Bá Tân.
Dựa vào hình thức của “bài thơ” và đặc điểm không có cái tôi riêng tư của tác giả để gọi ĐDCNL là vè (như tôi trong bài viết Về “Bài Thơ” Đồng Dao Cho Người Lớn) là có phần gượng ép vì không hoàn toàn chính xác.
Ở đây tôi chỉ nhấn mạnh ĐDCNL không phải là thơ. Còn gọi nó là gì thì tùy cao kiến của độc giả.
Một Bài Khác Nữa
Trả lờiXóaTôi đọc khá nhiều “thơ” Thái Bá Tân thì thấy số lượng những bài “không phải thơ” lại nhiều hơn thơ đích thực. Tôi vào thivien.net để đọc thêm một số thơ của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, với hy vọng có thể kết luận ĐDCNL chỉ là trường hợp cá biệt. Trong số 438 bài thơ của ông ở trang web này tôi mới đọc đến bài thứ 35 thì “gặp” một bài “không phải thơ” nữa. Xin copy xuống dưới đây để trình làng.
CHÚ MÈO ĐI HỌC
Mèo mẻo mèo meo
Chú mèo đi học
Áo quần trắng muốt
Đôi giày xanh xanh
Chân chú bước nhanh
Bên dòng mương nhỏ.
Gặp bông hoa đỏ
Mèo mải ngắm nhìn
Gặp chú chuồn kim
Chơi trò đuổi bắt
Gặp chim sắt sặt
Gây chuyện cãi nhau
Trèo tít cành cao
Chim vù bay mất...
Chú mèo bực tức
Lao mình đuổi theo
Sẩy chân té nhào
Mực giây bẩn áo...
Mèo ta mếu máo
Chạy vội tới trường
Vừa buổi học tan
Bạn bè rảo bước...
Tất cả cùng thuộc
Bài hát rất hay
Chú mèo mải chơi
Muốn hoà giọng hát
Nhưng chú chỉ biết
Meo mẻo
Mèo meo...
Tác giả quan sát chú mèo trắng dạo chơi và đem trí tưởng tượng phong phú của mình vẽ thêm hoa hòe hoa sói để giúp vui cho các cháu thiếu nhi. Chú Mèo Đi Học – dù là sự biểu lộ một tấm lòng đáng quý đối với tuổi thơ - chỉ là sản phẩm của lý trí, không có một mảy may cảm xúc của cái tôi riêng tư. Nó cũng “không phải thơ” mà là một thứ cây dị chủng trong vườn thơ.
Thi sĩ làm thơ mà không để ý rất dễ mắc lỗi này. Thay vì chia sẻ với độc giả cảm xúc, rung động của mình đối với cảnh thơ, ngài lại cho lý trí độc quyền đạo diễn. Phần lớn “thơ” của Thái Bá Tân và một vài bài của Nguyễn Đức Tùng là những thí dụ điển hình.
Trả lờiXóaTôi viết loạt bài về phân biệt thơ hay “không phải thơ” như một lời cảnh báo. Tôi không muốn phải thấy những tài thơ, còn non trẻ hay đã chin mùi, bỏ tâm huyết, công sức vào một tứ thơ độc đáo, mà vì một lỗi lầm (có thể tránh được) biến đứa con tinh thần của mình, lẽ ra sẽ là một bài thơ hay lại trở thành một thứ cây dị chủng trong vườn thơ. Như thế uổng phí lắm.
Bác Vũ Nho nói “… bản thân anh Tạo là nhà thơ có thành tựu”. Tôi hoàn toàn không phủ nhận điều đó. Ngay cả khi đang viết những dòng chữ này, lòng kính trọng và sự nể phục của tôi đối với thanh tựu (về thơ) của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cũng không hề thay đổi.
Bình thơ tôi không chủ ý “nâng” hay “hạ” thi sĩ mà chỉ dốc lòng tìm công lý cho thơ.
Cám ơn tác giả Phạm Đức Nhì đã trao đổi thẳng thắn.
Trả lờiXóaNói tóm lại, việc cảm nhận bài thơ "Đồng dao cho người lớn" gây ra sự tranh luận vì anh Nhì đã coi bài thơ của Nguyễn Trọng Tạo là một bài VÈ. Và ra sức chê bai vè. Nhưng Vè là thể loại văn học dân gian, có chức năng riêng. Không thể đem thơ dở gán cho vè để chê. Một thể loại văn học dân gian khác xa với một bài thơ có tác giả, dù là mượn hình thức "đồng dao". Bởi thế nên anh Nhì đã thấy được sự không chính xác của mình trong kết luận "Ở đây tôi chỉ nhấn mạnh ĐDCNL không phải là thơ. Còn gọi nó là gì thì tùy cao kiến của độc giả". Bài đồng dao đó có phải là THƠ không, đó là tùy quan niệm của mỗi người. Nó hay hoặc dở, cũng tùy vào độc giả! Vậy là có thể khép lại cuộc thảo luận này. Một lần nữa trân trọng cám ơn anh Phạm Đức Nhì!
Cám ơn bác Vũ Nho đã trao đổi với tôi về một đề tài lý thú. Nhờ thế tôi đã "thấy ra" vài điều bổ ích. Chúc bác vui khỏe.
Trả lờiXóa