QUÊ
VÀ EM - NGUỒN CẢM HỨNG LỚN TRONG THƠ
TRẦN
QUAN G QUÝ
(Qua tập thơ Nguồn của Trần Quang Quý,
nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2019)
Vũ Nho
Tập
thơ 45 bài của Trần Quang Quý gồm hai bài được viết năm 2014, hai bài viết năm
2015, hai bài viết năm 2016, mười ba bài viết năm 2017. Như vậy, hơn một nửa viết
trong năm 2018 và 2019. Có khi ở cuối bài còn ghi rõ cả giờ phút, ngày, tháng,
năm, địa điểm thành thơ, sự kiện gắn với bài thơ (Tết, áp Tết, ngày tam nhật Mẹ, mùa Vu Lan, Ngày vợ ở Bệnh viện HN, Ngày
chuyển gió,...). Rất chuyên nghiệp và cũng rất tiện cho người tìm hiểu khi
muốn khám phá hoàn cảnh thành thơ của mỗi bài.
Không phải vì dòng
chữ như là lời đề từ của tác giả “Nguồn cội
và dòng chảy văn hóa của Sông Đà - Núi Tản huyền ảo, uy linh luôn là nơi chốn
trở về trong tâm thức tôi” mà chúng tôi đặt nhan đề bài viết như thế. Nói
quê là nguồn cảm hứng lớn trong thơ của Trần Quang Quý có vẻ như là sự hiển
nhiên, bởi mỗi nhà thơ đều sinh ra ở một miền quê, có thể là trung du, đồng bằng
hay miền núi, miền biển, và quê luôn
luôn in dấu (dù đậm hay nhạt) trong thơ của họ. Tuy vậy, nói về quê hương với một
cảm hứng thiêng liêng, thống thiết, coi quê hương như nguồn cảm hứng lớn thì
không mấy ai. Có lẽ trong thơ ca hiện đại chỉ có Nguyễn Quang Thiều với Làng
Chùa, và Trần Quang Quý với làng Hạ Bì.
Trần
Quang Quý từng ao ước và giãi bày:
Có lúc tôi
muốn mang quê đặt vào Hà Nội
nhổ Hà Nội đặt vào quê
không sao lắp đặt trật tự tâm
hồn
phong vị quê và dòng chảy văn
hóa
ríu ran ngõ làng, những vườn
cây xanh mướt phù sa
đóng tôi vào căn cước làng Hạ
Bì và sông Đà núi Tản
(Giấc quê)
Không
thực hiện được việc “Nhổ Hà Nội đặt vào
quê”, tác giả “mang quê đặt vào Hà Nội”
theo cách riêng của mình. Đó là cách đem một hũ đất linh của quê, về đặt lên ban
thờ gia tiên ở Hà Nội, để lúc nào cũng được gần quê, được nghe “Tổ tiên thì thầm mật chỉ”:
Trên ban thờ
nhà tôi dâng một hũ đất
lấy từ làng Hạ Bì nơi
ông bà tôi nằm lại nơi này
nơi Tổ tiên tôi dạt hạ lưu, bờ tả sông Đà lập ấp
bên kia Ba Vì mây tụ uy
linh hổ phục rồng chầu […]
Đêm, lên ban thờ thắp
hương, tôi vẫn nghe Tổ tiên
thì
thầm mật chỉ
con đường đến chữ Phúc
tu cả vạn đời
(Đất linh)
Hình
ảnh làng Hạ Bì, hình ảnh bến quê, đường làng, sông Đà núi Tản là hình ảnh
thiêng liêng, hùng vĩ được nhà thơ trân trọng nhắc đến với niềm tha thiết yêu mến
và tự hào:
Đầu năm xuống
sông Đà
vốc một vốc nước rửa mặt
[…]
Vốc lên vốc nữa
mắt sáng trời non Tản
ngọn Ba Vì đang tu
trong mây
núi tinh luyện để thành
tĩnh tại
gió vuốt ve vẫn đứng tạc
trời
(Rửa xuân)
Vũ Nho - Chủ trang
Cái
làng Hạ Bì ấy người thơ không thể đặt vào Hà Nội, cho nên nó trở thành làng cũ
- cố hương. Cố hương trong tâm thức tác giả thật kì diệu và ân tình:
cố hương ngân sông núi
đất đai này,
nâng đôi
cánh vi diệu
bay qua lỗ đáo tuổi thơ
và cánh đồng vàng lúa…
Cố hương cấy vào tôi những
đon mạ mùa đông giá lạnh
những bông súng rùng
rùng mùa cá vật đẻ
ễnh ương kêu nẫu ruột
ao làng
kêu đằng đẵng những đời
bùn đất
Máu và nước mắt lớp lớp
người trộn vào cỏ cây
mọc gốc đa, sân đình, bến
sông trăng tỏa, mọc văn minh làng
(Cố hương)
Nếu Nguyễn Quang
Thiều mong ước được thành con chó nhỏ canh giữ nỗi buồn quê hương: “Tôi xin ở
kiếp sau là một con chó nhỏ/ Để canh giữ nỗi buồn - báu vật cố hương tôi” (Bài hát về cố hương), thì Trần Quang
Quý khẳng định chắc nịch:
Không gì bứng
tôi được khỏi cố hương
Và Có gì đánh đổi được
Tôi kí thác tôi trên đất Tổ
tiên
phong tục truyền đời vun gốc
cây văn hóa
Sẽ là gì khi trụi rễ cố
hương?
(Cố
hương)
Chính
bởi thế mà “Bến quê” được nhà thơ neo giữ trong tâm hồn với xiết bao kỉ niệm:
Mẹ gánh
sương về phơi thóc ướt
Em gánh trăng về phơi mắt quê
dưa muối tương cà… bẩm
sinh nền văn minh lúa nước
những chiếc bồ bong cạp
tư duy
Bến quê
Đong bao bước chân làng
đong gió sương, đong tiếng
gầm thác chảy
chum vại dần sàng âm
vang thớ đất
sóng vỗ dọc đời người,
vỗ sâu tâm thức
ai về làng, ai mãi bỏ
quê!
Thương những cuộc đời
không bến
(Bến quê)
Quê còn là niềm cảm hứng
sáng tạo trong những Bầu trời thúng, Giấc
quê, Mùa sim, Cây gạo bên sông, Đưa Mẹ về Tiên cõi.
Hình ảnh đau thương ngày để tang người mẹ hiền gắn liền với
cảnh vật quê hương:
Bình vôi trầu
của Mẹ hóa mây trắng vắt ngang sông Đà
quấn khăn tang non Tản
để mỗi lần nhìn lên
chúng con thấy cao xanh có mẹ
sông cũng nằm lép sóng
cánh cò về nghiêng biệt
lời ru
(Đưa Mẹ vè Tiên cõi)
Mùa
Vu lan đầu tiên vắng mẹ cũng là mùa Vu lan ở quê nhà:
Cây nhãn
trĩu cành mà đâu bóng mẹ
đâu nghĩ mùa nay mẹ mãi
xa rồi
nén hương con dâng, cây
cau đứng chong chong và giàn trầu rủ lá
Vu lan mồ côi tôi đứa
trẻ già
(Sáng nay, mùa Vu lan)
Không
phải tự nhiên mà khi viết về bản thân mình, nhà thơ nhấn mạnh đến nguồn gốc quê
hương đầy tự hào kiêu hãnh sông Đà núi Tản và lòng biết ơn Cha Mẹ:
Tôi, giọt
máu Mẹ - Cha
Giời cho sinh ra bên bờ sóng
sông Đà, Giáp Ngọ
mở mắt đã Ba Vì sừng sững
mở tai đã sông Đà sóng
cuộn
mở tâm đã ngọt lời ru Mẹ
dằng dặc thời gian sữa
mẹ rót tôi qua từng khắc cơ hàn
Cha cho chí trai cuộn
vó đạp dâu bể
Ngẩng Ba Vì bay
Tôi chú ngựa thích Tự
do trên đồng cỏ Hạ Bì
(Viết cho mình, tuổi Ngựa)
Có
thể nói làng Hạ Bì đã sinh thành và nuôi dưỡng nhà thơ để rồi làng, quê hương
trở thành niềm cảm hứng lớn để nhà thơ một đời ca hát. Làng hạ Bì của Trần
Quang Quý, cũng như làng Chùa của Nguyễn Quang Thiều không chỉ là một cái làng
cụ thể của riêng nữa, mà nó có ý nghĩa khái quát, như là CỐ HƯƠNG của mỗi người
dân Việt tha hương.
Từ yêu quê hương mình đến yêu quê hương bạn khoảng cách chẳng
là bao. Làng mình, quê mình là nguồn cảm hứng lớn, thì làng bạn, quê bạn cũng
có thể là nguồn cảm hứng lớn chứ sao. Sẽ không có gì ngạc nhiên khi trong tập
thơ có những miền đất, miền quê khác được Trần Quang Quý cảm nhận với tình cảm
cũng thật nồng nàn, da diết. Đó là Việt Trì, Hưng Yên, Nhật Tân, Vĩnh Yên, Hà
Giang, Kinh Bắc, Nghệ An, Bến Tre.
Chỉ ví dụ về Nắng Nghệ
để thấy thi sĩ đã thành công dân Nghệ, như công dân của làng Hạ Bì, Xuân Lộc,
Thanh Thủy của miền đất Tổ:
Tôi không Nghệ mà nẻo
tôi vẫn Nghệ
Nghệ ở em, Nghệ ở Diễn Châu, Nghệ về cửa
Hội
một chiếc ô che cả vòm trời
trong chiếc ô một dịu dàng cười
em thu nắng đôi môi
nhốt tôi
miền nắng Nghệ
(Nắng Nghệ)
Thường
thì ở mỗi miền đất được nhắc đều có một kỉ
niệm EM, EM kỉ niệm. Chúng tôi phát
hiện rằng chính EM cùng với QUÊ là nguồn cảm hứng lớn. Nếu thống kê, sẽ thấy thật
kinh ngạc. Tập thơ này 45 bài thì có đến 28 bài viết có hình ảnh em (chính xác
là 26 bài có Em, 2 bài Em được gọi bằng NÀNG). Từ EM là một từ được sử dụng
nhiều nhất trong số những danh từ như quê, làng, cố hương,…
Em có thể là một người bạn gái cùng quê, một thôn nữ trong
làng gắn với những kỉ niệm ấu thơ, gắn với kỉ niệm làng:
- Em gánh trăng về phơi mắt quê
(Bến)
- Em gánh nước quẩy chiều lên biếc
tưới ướt mắt giai làng
(Cây gạo bên sông)
- Em chín một cặp môi
tóc đuôi gà thích thú với từng giỏ
sim ngọt (Mùa sim)
Nhưng
Em còn là một bạn văn chương, một bạn cà phê, một bạn tình khơi gợi những rung
động khát khao. Ta bắt gặp những em dẫn dụ người viết và người viết dẫn dụ em:
- Em Vĩnh Yên
nụ cười Vĩnh Yên
dắt anh chiều bình yên
(Chiều Vĩnh Yên)
- Em tươi non em vừa cổ sử
dắt tôi vào thế giới tưởng tượng
rúc rích trong vườn (Mưa Phố Hiến)
- Em ngâu tôi
trời đổ mưa nước mắt
những ngọn lau chờ bạc rũ một triền
sông
(Ngâu)
- Cà phê môi thơm
tí tách nụ cười phơi gió
dẫn tôi về đêm ấy Dữu Lâu
tuổi mười tám vồng căng vặn cong bờ
lúa
(Trong đêm mưa Việt Trì)
- Dắt em qua cánh đồng cỏ dại ngát
hương
tung những cánh châu chấu
bay chiều em dậy thì (Rã
đông)
- Mình dắt nhau bằng sợi dây quan họ
chân mắc vào giăng mắc í a (Lên
Kinh Bắc).
Cùng Em như thế, chính
là lúc cảm xúc thăng hoa, “mắt chan mắt,
men chan men” (Châm tửu), “em nhập
vào tôi/ Ta ngây dại bay qua một thế giới khác” (Trong đêm mưa Việt Trì), “Những con chữ rủ lên đồng tưởng tượng/ Tôi
lên đồng khan em” (Ngâu chữ); “Rã
đông em bằng môi riết róng/ rã núi cởi trần mùa đông” (Rã đông); “Một ngày em/ đợi chật phương chờ/ em ngậy
gió/ ngậy trong men nhớ” (Phố đợi); “Mình
uống đầy nhau/ đầy mắt/ Mình uống thơm nhau/ đầy môi/ Tam Đảo ngẩn bên trời/ nằm
duỗi xanh Đầm Vạc” (Chiều Vĩnh Yên); “Em
lịm tôi từ mắt/ em ngọt tôi từ môi […] Tôi ướt vườn xanh Phố Hiến/ em hong tôi
bằng một ánh nhìn” (Mưa Phố Hiến).
Những
tình cảm trai gái ấy cùng với tình quê làm cho thơ của Trần Quang Quý đẹp, hấp
dẫn, lôi cuốn người đọc bằng một vẻ đẹp riêng. Không quá chú ý tuyên ngôn cách tân ồn ào, nhưng Trần Quang
Quý đem đến những hình ảnh mới, lối nghĩ mới và lối diễn đạt mới. Có lẽ thơ namkau
cũng chỉ là một thử nghiệm, một cách tìm tòi đơn thuần về số câu chứ
không có lề luật, thi pháp gì đặc biệt. Mặc dù thi sĩ Du Tử Lê đã viết cả một bài có ý
khen sự tìm tòi của Trần Quang Quý trong “trường phái thơ namkau”, nhưng lề luật
của nó chỉ đơn giản là thơ tự do phần một - ba câu, phần hai - hai câu, thơ lục
bát thì phần một bốn câu, phần hai một
câu! Thuần túy hình thức! Điều lạ là trong tập này không thấy bóng dáng bài namkau
nào! Phải chăng tác giả đã in hết “bài
hay lẫn bài vừa” trong tập “namkau”. Chúng tôi cho rằng đạt đến
độ chín của cảm xúc và nghề viết, chẳng cứ gì “namkau” mà thơ Trần Quang
Quý không gò số câu nào vẫn mới và vẫn hay!
Trong
một bài thơ nhan đề là Có con đường, chúng tôi chú ý đến khổ thơ:
Tôi đi sáng nay cùng
dòng sông ấu thơ
tôi đi sáng nay ngàn
con sóng mùa hè tuổi trẻ
tôi đi sáng nay cùng
mùa thu đan mềm giai điệu lá […]
Chỉ khi con đường tôi
hiện diện
tôi là tôi trong muôn vẻ
người
không trộn mặt
Có thể
coi đây như là sơ kết con đường đời, con đường thơ từ ấu thơ, thanh xuân đến
mùa thu, mùa chín của đời người, đời thơ. Tác giả đã có gương mặt riêng giữa “muôn vẻ người”. Tập thơ Nguồn
chính là một bảo chứng cho lời giãi bày mà cũng như là tự đánh giá một cách bình
tĩnh, khách quan của tác giả.
Hà Nội, tháng 12/2019
VN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét