Cảm nhận THĂM THẲM BÓNG NGƯỜI của ĐỖ CHU
Vũ
Nho
Cuốn tùy bút này có ba bài lớn với
nhan đề “ Hoa bờ giậu”, “Thăm thẳm bóng người” và “Về quê đốt lửa”. Bài Hoa bờ giậu có 8 bài nhỏ ; bài Thăm thẳm bóng người gồm 3 bài nhỏ; bài Về quê đốt lửa có 4 bài. Như vậy là có 15 bài “miên man tùy bút” viết về những kỉ niệm, những gặp gỡ, những suy ngẫm
về văn, về đời, về phận người, đời sống của miền quê, của đất nước và về lịch sử. Nhà văn Phạm Khải cho rằng “ Vốn dĩ ông ( Đỗ Chu) là người chịu đọc, chịu ngẫm ngợi, ham la cà
và cũng rất hay chuyện. Bởi vậy, cái vốn sống, vốn hiểu biết mà ông thu nạp được
trong sự xô bồ về cuộc sống ấy, nếu không chuyển được vào sáng tác, ông biết
chuyển vào đâu? Như một hối thúc tự nhiên, Đỗ Chu tìm đến thể tài tùy bút, tản
văn” ( Phạm Khải – Trang sách mạch đời,
nxb Văn Học, Hà Nội, 2917, trang 8). Thói quen hay ngồi quán “ Tôi vội lộn trở lại quán nước bên kia đường…” “ Tôi lại chui vào quán…” ( trang 6-7), vì
Đỗ Chu thích nghe chuyện ở quán và còn vì
lí do “ Rất nhiều nhà văn, kể cả những
người nổi tiếng nhất, ít nhiều đều đã từng ngồi bù khú với nhau ở quán nước đâu
đó” ( tr. 10). Rồi cái trụ sở Hội
Nhà văn, trước ở 65 Nguyễn Du, sau chuyển về số 9 Nguyễn Đình Chiểu thì cũng là
một cái QUÁN sang trọng để gặp gỡ, trò chuyện và nghe ngóng chứ sao! Cộng với sự
chịu đi, chịu đọc, chịu ghi nhớ, chịu ngẫm ngợi đã khiến cho Đỗ Chu có rất nhiều cái để mà “miên man” viết trong hai cuốn sách
- trước đó là tùy bút “Trước đèn” và bây
giờ là “Thăm thẳm bóng người”.
Vũ Nho chủ trang
Khác với những chân dung văn học mà người viết khá kĩ lưỡng
là Vân Long, Vũ Từ Trang, Đỗ Chu cũng nói đến các nhà văn trong tùy bút của mình, nhưng nói theo một cách
khác, nói theo cách chỉ nhấn mạnh cái ấn
tượng họ để lại trong ông, nói theo cảm nhận của cá nhân, đang về nhân vật, bỗng
chuyển sang người liên quan, rồi từ người liên quan lại bắc cầu qua người liên
quan nữa. Lan man, nhưng vẫn liền mạch. Tiêu biểu là cái bài số 1 trong bài lớn
có tên là “ Hoa bờ dậu”. Từ chuyện quán,
tác giả kể đến Bùi Ngọc Tấn ngồi quán trước khi đi Nam, rồi cụ Tế Hanh ngồi
quán. Rồi cụ Nguyễn Công Hoan bực ở quán, sau gọi điện cho cụ Nguyễn Tuân trao
gươm báu, rồi lan man sang chuyện ông
Quang Sáng, Viễn Phương tặng cụ Tuân thanh gươm ở nhà bố mẹ của tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu. Tổng cộng có đến 14 nhân vật văn chương và Lịch sử.
Cụ Nguyễn Du đã viết về các bậc tài
hoa : “Thác là thể phách, còn là tinh anh”
(Truyện Kiều). Những người tài hoa là những người còn mãi, sống mãi. “ Cái còn mãi chính là khuôn mặt tinh thần của
mỗi con người mà nhà Phật gọi nó là Kim cương bất hoại” ( trang 63). Với tinh thần ấy, nhà văn Đỗ Chu viết cuốn tùy
bút “ Thăm thẳm bóng người”, ghi nhận những đóng góp của những nhà
văn hóa, chủ yếu là nhà văn có đóng góp cho nền văn chương nước nhà. Đỗ Chu coi
những người được mình động bút là những “ khuôn
mặt trí tuệ ẩn hiện” là những “vồng
hoa” trên “ bờ hoa tư tưởng , bờ hoa của nghệ thuật và văn học” của dân tộc ( trang 24). Mỗi người trong họ lấp lánh sáng “ lung linh
một chấm sáng” ( trang 237).
Một trong nhiều những “chấm sáng” ấy là cụ Hoa Bằng. Không
có một bài riêng về cụ. Nhưng bài số 3 trong bài lớn “Thăm thẳm bóng người” có
nhắc đến cụ, trong mối liên quan đến họa sĩ Linh Chi, nhà văn Trọng Hứa và một
loạt tên tuổi các nhà Hán học như Bùi Kỉ, Trần Trọng Kim, Phan Khôi, Ngô Tất Tố,
Vũ Tuân Sán, Cao Xuân Huy, Nguyễn Văn Tố, Bàng Sĩ Nguyên. Chỉ
ít dòng thôi, nhưng cụ Hoa Bằng để lại ấn tượng thật sâu khi thắp hương ở nhà một
người bạn và giảng giải ba chữ “ Kì nghiêm hồ”, vốn là câu trong sách Đại học của
Tăng Tử “ Thập mục sở thị, thập thủ sở chỉ,
kì nghiêm hồ” - “Mười mắt nhìn vào, mười tay chỉ vào, đáng
ngại lắm đấy”. Và con người thâm nho ấy bình luận “ Giá nhà nhà, từ thứ dân đến cán bộ cao cấp của ta đâu cũng để mấy chữ
này thì xã hội sẽ nề nếp, ngay ngắn hơn nhiều”( tr.229).
Một
người khác cũng là một chấm sáng của các cụ nho học là cụ Phó
bảng Bùi Kỉ, mà xa hơn về trước còn được gọi là “Đồng tiến sĩ xuất thân”. Gia đình nhà cụ trong vòng 100 năm có bốn
đời Tiến sĩ nối tiếp Hán học và Tây học. Và trong suốt một nghìn năm khoa cử nước
nhà dòng họ đời nào cũng có người đỗ đạt
hiển vinh “ Chỉ thấy duy nhất
có một họ Bùi mà thôi”. Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú đều khẳng định như vậy.
Với các nhà văn cùng thời thì Phạm Tiến Duật là người để lại
ấn tượng sâu đậm hơn cả. Là chấm sáng
lung linh hơn cả. Có lẽ vì cùng là nhà
văn, cùng mặc mặc áo lính. Hơn nữa, Đỗ
Chu lại thân thiết với gia đình, với người mẹ của Phạm Tiến Duật. Cảm nhận của
Đỗ Chu về thơ Phạm Tiến Duật là thơ “ nói
nhiều đến lửa, chỗ nào cũng lửa”. “ Nhiều
năm cánh bộ đội chúng tôi đã vịn vào những câu thơ của anh để ra trận, những
câu thơ có lửa” ( tr. 49). Bằng trực giác, Đỗ Chu đã thấy như các nhà nghiên cứu phê bình từng thấy
và đánh giá vai trò của nhà thơ Phạm Tiến Duật trong kháng chiến chống Mĩ, anh
là “cây sáo đứng ở vị trí sô lô” và :
“ Sự xuất hiện của anh trên văn đàn là sự
xuất hiện của một bút pháp, có sức đột phá, có sức khai mở một thi pháp” (
trang 50). Đồng thời, Đỗ Chu còn tọc mạch, cho mọi người biết giải thưởng giải nhất cuộc thi thơ có cái đài Orionton được lấy ra từ thùng quà
viện trợ nhưng “có chỗ trục trặc, xin đồng
chí tạm cho mang về để sửa tiếp”.
Người thứ hai để lại ấn tượng sâu là nhà thơ Nguyễn Xuân Thâm. Trước khi viết về
nhà thơ này, Đỗ Chu “ lan man” về “ Thi thư khí” và rồi sau đó kết luận “ Phải biết anh là một người hiền, sẵn mang
trong mình cái khí Thi Thư từ nhỏ thì mới hiểu được vì sao đến hôm nay anh còn
ngồi đây” (tr. 110).
Các nhà văn Thavi Quý, Kim Lân, Nguyễn Tuân, Trần Hoài
Dương, Chính Hữu đều được viết với tinh thần ngưỡng mộ, trân trọng. Họ là các bậc trưởng thượng trong làng văn
chương. Các nhà văn khác dù chỉ nói đến năm bảy dòng hay một vài trang như Chu Mạnh Trinh, Tế
Hanh, Tô Hoài, Hữu Thỉnh, Kêvin Bô wen,…
nhưng cái tình cảm mến, quý trọng luôn luôn nhuần thấm trong từng câu chữ.
Có thể khái quát những đóng góp của các
nhà văn mà Đỗ Chu đề cập đến trong cuốn sách này : “Các nhà văn ấy không chỉ để lại những tác phẩm hay, những kỉ niệm đẹp của
những cách sống đẹp. Sau tất cả, họ đã để lại cho chúng ta rất nhiều hiểu biết
về con người, về thời cuộc, họ để lại cho chúng ta một niềm tin vào tương lai của
dân tộc, rộng hơn nữa là niềm tin vào tương lai nhân loại” ( tr. 88).
Điều cuối cùng là trong khi tác giả nâng niu, trân trọng những
“ thăm thẳm bóng người” thì bóng dáng
nhà văn Đỗ Chu cũng dần dần hiện lên và phát sáng. Bạn đọc khi theo đến trang
cuối cùng của tập sách sẽ bắt gặp một Đỗ Chu ham đọc, ham học hỏi, chịu khó
nghĩ suy, trăn trở.
Trăn trở về thời đại : “thời
chúng ta đang sống quả đã không thiếu những gì được gọi là vĩ đại nhưng rất buồn
ở chỗ nó vẫn đang thiếu tính nhân hậu trong từng việc lớn nhỏ, trong mỗi ngày,
mỗi tháng, mỗi năm. Nhìn kĩ vào con người, thấy nó vẫn chưa thật đẹp như nó cần
phải đẹp” ( tr. 96).
Trăn trở về một nền văn học mà tác giả có tham gia xây dựng
:
“Nhìn chung, cái khí Thi Thư đang như muốn đuối, cái tình nước non hình
như còn nhẹ, văn học của chúng ta đang chuyển động rụt rè và ít bản lĩnh trong
khi đó thực tiễn đang tiến về phía trước với những bước đi hết sức vạm vỡ và
quyết liệt lạ thường” ( tr. 104).
Trăn trở, nghĩ suy về sự bất an của xã hội : “Sau cuộc chiến kéo dài, rất nhiều vấn đề bức
xúc đặt ra trong xã hội chúng ta, nếu nhìn nhận việc nước với đúng tầm vóc cuả
nó, với đúng quy mô của nó, trong một tinh thần trách nhiệm nhất ta sẽ thấy nhiều
thập kỉ vừa qua không ai là không bất an, không ai là không thao thức mất ngủ”
( tr. 186).
Trăn trở về những trang viết của mình và của đồng nghiệp :
“Làm sao để có những trang sách đủ sức sống
lâu dài trong lòng người đọc. Đấy là tiếng gọi của đời sống, là trái bưởi vàng
cuối thu ta gửi lại cho đời” ( tr. 120).
Trăn trở về vấn đề sống còn của người cầm bút
là bản lĩnh và cái riêng : “ Cho
nên ở đây vấn đề sống còn chính là bản
lĩnh của người cầm bút, là tính cách riêng, bút pháp riêng và cách nhìn cách
nghĩ cũng phải riêng, không thể đua đòi, không thể theo thời, càng không thể
đánh mất mình” ( tr. 200).
Trong cuốn sách, Đỗ Chu có nhắc đến
một số câu chữ Hán văn cổ. Tuy vậy, không rõ là do nhà văn nhớ không chính xác,
hay do lỗi vi tính mà nhà văn không soát
lại được nên người đọc thấy phân vân. Ví như ở trang 100. “Vạn bang giai hạ phẩm,
duy hữu độc thư cao”. Chính xác phải là “ban” chứ không phải là “bang”. Ai cũng
biết câu nói nổi tiếng của Khổng Tử về phụ nữ là “nữ nhân nan hóa” hoặc “nữ nhi nan hóa”, “ nữ tử nan hóa” (
Nguyên văn trong Luận Ngữ - Duy nữ tử dữ
tiểu nhân, vi nan dưỡng dã) thế mà
trong trí nhớ của người viết lại là “phu nhân nan hóa” và được dịch là đàn bà khó dạy (tr.100). Cái
cụm từ “lão nông tri điền” ( ông già
nông dân biết ruộng) quá quen với người Việt, thế mà lại được viết thành “chi điền” ( “nom như một lão nông chi điền vậy
nhỉ?” - tr. 317).
Một chỗ khác, nhà bác học Lê Quý Đôn và nhà sử học Phan Huy Chú hơn nhau khoảng năm chục tuổi. Lê Quý Đôn sinh 1726 mất
năm 1784, Phan Huy Chú sinh năm 1782 mất năm 1840. Thế mà tác giả lại viết “ Lê
Quý Đôn khi ngồi chép sử cách đây năm trăm năm…” ( tr. 246).
Hay là có một cụ Lê Quý Đôn khác ?
Đấy có thể là những tì
vết không đáng có trên một viên ngọc đẹp.
Khi suy ngẫm về những nhân vật trong “Thăm thẳm bóng người”,
Đỗ Chu viết : “Tầm vóc một con người,
nhân cách một con người có thể tìm thấy từ trong thành tựu sáng tạo, từ sự nghiệp
của chính người ấy, nhưng rất có thể cũng chỉ cần nhìn vào cách sống, nhìn vào
những hành vi ứng xử của người ấy. Cách sống giữa nhân gian, cách ứng xử trước
thời cuộc, trước mỗi bước đi trên đường đời là sự bày tỏ nhân cách hết sức
thành thật” ( tr. 237). Tôi nghĩ rằng tập sách này cũng góp một phần cho bạn
đọc đánh giá đúng về người lính Đỗ Chu,
nhà văn Đỗ Chu - người viết chân dung văn học theo lối tùy bút riêng, độc đáo.
Hà Nội, ngày cuối năm Kỉ Hợi, 2019
Rất hay
Trả lờiXóaCám ơn bạn đã ghé trang và ghi nhận xét!
Xóa