CÓ MỘT HOÀNG DÂN BÌNH THƠ CA
Vũ
Nho
Những người quen biết Hoàng Dân thấy
anh là một nhà giáo từng cầm súng khá đa tài và viết khỏe. Là người viết truyện
ngắn đã từng đoạt giải cao trong cuộc thi của Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội với
truyện ngắn Chiều vô danh. Đã in hai tập truyện ngắn Chiều vô danh và Bức chân
dung bị đánh cắp. Đã thử sức trên cánh đồng văn xuôi với những tiểu thuyết Hoàng Đế tai lừa, Nhân chứng chiến tranh, Biệt thự xanh, Vòng
hoa trinh trắng, Khúc tráng ca, Gương. Đã viết chung với Tiến sĩ Nguyễn Văn
Đường cả một cuốn sách về Truyện Kiều. Đã viết và in bốn tập thơ Bài ca không cũ, Khoảng không, Chơi thơ và Hồn chữ . Đã viết truyện dài cho thiếu nhi Vật báu Hồ Gươm. Từng viết chung với con
trai cuốn sách bình luận bóng đá. Và cũng viết những bài bình cho các bài ca dao
và những áng thơ hay.
Bài viết này chúng tôi chỉ nêu lên cảm nhận của mình về
riêng mảng bình thơ của Hoàng Dân mà thôi.
Nhà giáo Hoàng dân đã dành 12 bài viết để chuyên bình về ca
dao là một loại thơ dân gian. Có một sự
khác biệt với những người bình khác
chính là ở chỗ người ta thường bình từng bài ca dao riêng biệt. Nếu cần
thiết thì mới liên hệ rộng ra các bài
cùng chủ đề, cùng motip để khắc sâu, nhấn mạnh,
làm nổi bật bài ca dao được bình. Trong khi đó thì nhà giáo, nhà văn
Hoàng Dân lại bình một loạt các bài ca dao có
dính dáng đến “cầu”, dính dáng đến
“dải yếm” là vật liệu làm cầu để nói về câu ca dao:
Ước gì sông rộng một
gang
Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi
Và cái cô gái này được
nhà giáo đưa lên làm thành nhan đề của bài bình “ Có một người con gái…”.
Với bài ca dao “ Ta về ta tắm ao ta/ Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn” thì người bình đã công phu khảo sát đại từ “ta” trong một loạt
bài ca dao. Ta là ai? Chủ thể hay khách
thể? Số ít hay số nhiều? Ngôi thứ nhất hay
thứ hai, thứ ba? Rồi khi đã xác định hệ quy chiếu của đại từ “ta”, mới
bàn tiếp đến chuyện “ta về”, chuyện “ta tắm” và cái “ao ta” có liên quan gì với
cái “ao nhà”. Lí giải về các tầng nghĩa của bài ca dao nhìn chung là chi tiết
và có thể chấp nhận. Điều đáng nói là người bình đã xác quyết câu ca dao đang
bàn rộng nghĩa hơn câu ca dao cùng loại cũng có từ “ta” “Trâu ta ăn cỏ đồng ta”…
Bình về những câu ca dao tỏ tình thì
không dừng ở một bài mà là một loạt bài. Những bài nói gần nói xa, vòng vòng vo
vo và những bài nói thẳng đến mức đột ngột không rào không đón. Và quy tụ lại với
chủ đề “ Có một khoảnh khắc của muôn đời”. Người viết mặc sức so sánh
tình của các cụ với tình của giới trẻ
ngày nay, khẳng định tính hiện đại, rồi còn vân vi định nghĩa bản chất của tình
yêu. Và khẳng định : “Tình yêu không chỉ
có nụ cười hồn nhiên vô tư, mà còn có cả những giọt nước mắt tiếc nuối, ân hận,
xót xa…Và ngay cả những giọt nước mắt nữa, nó có thể ngời sáng long lanh vìa
quá hạnh phúc và cũng có thể là một tín hiệu cáo chung cho một số phận tuyệt vọng
vì bị phản bội, bị cướp đoạt, và còn vì ( điều này mới thật khủng khiếp) đột
nhiên nó bị mất giá trị!”.
Cái cách tiếp cận một loạt bài cùng hệ thống là một cách tiếp
cận không quá mới lạ, nhưng nhà bình ca
dao Hoàng Dân tỏ ra ưa thích lối tiếp cận này. Vì thế mà những lời bình thường không dành cho một bài.
Thêm các ví dụ là “ Có một dòng sông trong ca dao…”, “ Thân em như…”, “ Lời ru buồn”, “ Có những
buổi chiều”.
Người đọc sẽ gặp một cách bình giải
khá tinh tế, chắc chắn của người am hiểu ca dao và đặc trưng thi pháp của thể
loại. Đồng thời gặp gỡ một cách bình phóng khoáng, đôi khi hơi phóng túng, một
cách liên tưởng rộng rãi ( cũng có khi lan man), đem đến những bất ngờ, thú vị.
Không thể không đồng tình với tác giả khi nói về bên lở bên bồi, bên trong bên
đục của một dòng sông : “Nếu lở-đục
là mất, là sai lầm, là xấu thì đó là một sự thật mà ta buộc phải nhìn thẳng vào
nó để…chấp nhận và chịu đựng. Nếu bồi-trong
là được, là đúng đắn là tốt thì đó chính là tác nhân của sự phát triển và sự
hoàn thiện. Nhưng, như đã nói, cuộc đời đâu có phân tuyến trắng đen rạch ròi đến
mức cơ học thô thiển như vậy? Tình huống phổ biến và mang tính vĩnh cửu của xã
hội loài người là sự nhập nhằng đúng-sai, tốt-xấu, trắng-đen: Biết rằng bên đục bên trong bên nào?”. Không
thể không thích thú với sự phân tích câu ca dao: “ Thân em như ớt trên cây/ Càng tươi ngoài vỏ càng cay trong lòng”,
người bình đã phân tích “sự đối lập cực đoan” giữa cặp từ “ tươi – cay”. Chúng không thể là từ trái
nghĩa khi tách khỏi ngữ cảnh. Nhưng chúng
là “cặp từ trái nghĩa ngữ dụng,
nghĩa là nó được so sánh bằng văn hóa, vốn sống và sự cảm thụ nghệ thuật”.
Có nhiều chỗ người
bình tỉnh táo chừng mực, tinh tế. Tuy nhiên, cũng có những chỗ nhà bình ca dao
say sưa trượt theo ý chủ quan của mình, đưa ra nhận xét thiếu chứng cứ thuyết
phục. Chẳng hạn câu ca dao:
Ước gì sông rộng một
gang
Bắc cầu giải yếm để chàng sang chơi.
Chàng ở đây là một đối
tượng hò hẹn của cô gái. Chúng ta chỉ biết cô muốn tạo điều kiện cho chàng sang
chơi, muốn gặp gỡ với chàng. Thế nhưng
người bình lại viết rằng : “ Vậy chàng là
ai? Chàng sẽ ứng xử với hành động dâng
hiến tuyệt đối (!?) của cô gái ra sao? Xin thưa, chàng ở đây là một gã trai vãng
lai, một gã cha vơ chú váo… nào đó mà thôi! Chàng chỉ sang chơi thôi chứ không phải sang để chạm ngõ, bỏ trầu
và càng không thể có chuyện đón dâu!”! Thật quá OAN cho chàng! Muốn có chuyện
chạm ngõ, bỏ trầu, đón dâu thì phải có bước đầu tiên sang chơi, làm quen đã chứ!
Mặc dù vậy tôi vẫn cho rằng bên cạnh những lời bình ca dao
của nhà nghiên cứu văn học dân gian Hoàng Tiến Tựu và nhiều nhà giáo, nhà văn
khác thì nhà giáo Hoàng Dân cũng góp nhiều công sức để tôn vinh những áng ca
dao độc đáo trong kho tàng thi ca đất nước.
Ngoài bình ca dao, Hoàng Dân còn bình những bài thơ hay. Là
người đã từng làm thơ, in bốn tập
thơ nên Hoàng Dân có một thuận lợi lớn
cho việc bình thơ. Nguyên việc một cô giáo đạp xe từ Mai Động lên trường Cao đẳng
Sư phạm Hà Nội, rồi lại đạp tiếp 17 km từ trường Cao đẳng đến nhà riêng của
Hoàng Dân, tác giả của tập “Chơi thơ” để
gặp bằng được tác giả mình mến mộ, đủ biết là trong lĩnh vực thơ, Hoàng Dân
cũng có thành tựu.
Không ngạc nhiên, khi trong 26 bài bình, Hoàng Dân chọn bình những
bài thơ liên quan đến chiến tranh, liên quan đến sự hi sinh mất mát của đồng đội của mình. Đó là các bài thơ “Lời ru hài cốt ngủ trên lưng”, “Kết nghĩa với
người dưới mộ” , “Cuộc chia li màu đỏ”, “Ba nén hương”,“Đi trong hương tràm”,
“Gửi em cô thanh niên xung phong”, “Vòng trắng”… Hầu hết các bài thơ còn lại đều liên quan đến tình cảm gia đình, tình yêu lứa đôi.
Có một điều cần khẳng định là nhà bình thơ Hoàng Dân chọn
bình các bài thơ theo tiêu chí riêng của anh là bài thơ đó hay, ám ảnh và xúc động.
Không phụ thuộc vào tiêu chí tác giả nổi
tiếng, hoặc tác gỉa chuyên nghiệp, tác
giả đã thành danh. Cứ hay, ám ảnh và ấn tượng là được chọn bình. Hoàng Dân cũng
không ngại khi bình lại các bài thơ người khác đã bình. Một số lớn bài thơ như vậy đã được người khác bình chẳng
hạn như Bỗng, Cuộc chia li màu đỏ, Tự
hát, Đợi, Thêm một, Những phút xao lòng, Tạm bợ, Với đứa con ngoài giá thú, Đi
trong hương tràm, Gửi em cô thanh niên xung phong,… vẫn được Hoàng Dân chọn
bình. Và từ vốn sống, vốn trải nghiệm riêng, người bình vẫn có thể đem lại cho
bạn đọc những khía cạnh mới mẻ, thú vị.
Ví dụ như về bài thơ “ Lời ru hài cốt ngủ trên lưng”. Người
bình đã rất tinh tế phân tích hai câu thơ giống
nhau ở từ “đất sâu” : Bao năm ngủ
đưới đất sâu/ Ngày mai bạn tới đất sâu.
“Có một lời ru đưa tiễn bạn từ “đất sâu” trở về với “đất sâu” chứ không phải từ cõi
dương sang cõi âm; lời ru ấy thấm đẫm nỗi buồn thương, nhớ tiếc, day dứt và
trăn trở… Cũng là “đất sâu” nhưng đất sâu ở chiến trường xưa là “đất khách” mà
vì nghĩa lớn, bạn đã đến và nằm tạm lại đó; còn “đất sâu” ở quê hương mới là
nơi bạn có thể thanh thản yên giấc ngàn thu trong vòng tay yêu thương của những
người thân, bạn bè đồng đội…”.
Bình bài thơ “ Thêm một” của Trần Hòa Bình, người bình đã
chỉ ra sáu cái “thêm một” là thêm cái dở, thì thiên nhiên chỉ có 1, còn 5 cái
thêm là của con người. Và kết luận chắc nịch “ Hầu hết những “phiền toái” trong cuộc đời này đều do con người gây ra
cho nhau cả thôi, xin chớ đổ vạ cho trời!”. Đó là một khám phá thú vị!
Bình bài thơ “ Những phút xao lòng” của Thuận Hữu, người viết
phải rất tự tin khi nói về chuyện “ ngoại
tình về tâm hồn” mới có thể viết : “ Có lẽ
không ai khuyến khích các cuộc ngoại tình dưới bất kì hình thức nào, mĩ từ nào
và nhân danh cái gì…Nhưng ngoại tình không hẳn chỉ có một màu đen chết chóc, nó
cũng có những yếu tố tích cực khá thú vị. Thứ nhất, nó khiến cho người trong cuộc
cảm thấy mình mình còn có một giá trị
nhất định. Thứ hai, nó chính là một tác nhân cổ vũ lòng ham sống và khát vọng sống
có ích của con người. Thứ ba, trong một chừng mực nào đó, nó chính là động lực
của sự sáng tạo và sự bất tử”. Người đọc có thể đồng tình, đồng tình một nửa
hoặc không đồng tình. Nhưng người bình
không “gây hấn” với bạn đọc, mà chỉ muốn đặt ra vấn đề để tranh cãi, để thảo luận,
chứ không mong sự dễ dãi đồng thuận.
Bình bài thơ “ Chân hương” của Nguyễn Nguyên Bảy quả thật
là một việc không dễ dàng. Bởi vì văn bản chỉ có bốn dòng thơ giản dị:
Cháy rồi, cháy hết phần
thơm
Chân hương đứng lặng nỗi buồn vô vi
Rồi màu phẩm nhuộm phai đi
Dẫu chẳng còn gì vẫn đứng chân hương
Nhà bình thơ đã nói rất
thuyết phục về cái cao cả và cái tầm thường. Không có gì là vĩnh cửu, chúng có
thể hoán đổi vị trí cho nhau. Nhưng tôi quý
là ở cái phần “băn khoăn” của người bình khi viết tiếp “ Nhưng có lẽ bình như trên chắc gì đã đủ, bởi
theo cái lí “ý ở ngoài lời” thì bài thơ này
còn có thể có một tầng ý nghĩa khác, khuất lấp mà sâu sắc hơn chăng?”.
Rồi người viết liên hệ với bài thơ 14 chữ khiến Nguyễn Nguyên Bảy gặp “tai nạn”
. Tôi thì nghĩ rằng đó cũng là một tầng.
Chính sự không xác quyết
này khơi gợi cho người đọc nghĩ tiếp. Tôi đã nghĩ và đã phỏng đoán. Có thể còn
có tầng ý nghĩa khác là cây hương vốn chỉ
là cái cái que tăm tre, được người ta
nhuộm màu, được người ta đắp phần hương liệu vào. Rồi khi những thứ đắp vào,
nhuộm vào bị cháy đi, bị phai màu thì cái “chân hương” là cái bản chất nguyên
thủy của cây hương ấy vẫn cứ còn, vẫn cứ
đứng. Mọi thứ danh vị người đời đắp vào cho cây hương thì sẽ không
tồn tại mãi mãi với nó, chỉ có cái giá trị nguyên thủy của nó là còn mãi mà thôi!
Người đọc luôn gặp những bất ngờ trong lập luận, phân tích
bình giải của người lính – nhà giáo yêu
thơ Hoàng Dân. Ví như về câu thơ của Việt Phương trong bài “Bỗng” :
“
Câu thơ “Hôn nhau cái hôn có con người
ma quỷ với thần tiên” thoạt nghe có vẻ
đơn giản như như một câu nói thường ngày, nhưng khi nằm trong trường cảm xúc của
bài thơ thì nó bỗng vụt sáng lên để trở
thành một câu thơ hay. Hay bởi nó nói đúng bản chất của nụ hôn nói riêng, tình
yêu nói chung. Sau này, ông Nguyễn Bảo
Sinh đã “tường minh hóa” cái ý này thật tuyệt : “ Trong mê tình chỉ là tình/ Tỉnh
ra mới biết trong tình có dâm/ Trong mê dâm chỉ là dâm/ Tỉnh ra mới biết trong
dâm có tình”. Trong nụ hôn này có cả “con” và “người”, có cả ham muốn nhục dục
và khát vọng tận hiến, có cả thực và mơ, có cả tầm thường và cao cả”.
Ví
như khi nói về bài thơ “Tự hát” của Xuân Quỳnh, người bình đã viết một câu như
là minh triết về tình yêu “ Thẩm quyền quyết định hạnh phúc trong tình yêu
chính là tình yêu, ngoài ra tất cả đều là vô nghĩa”. Hoặc như đánh giá rất mạnh dạn về nhà thơ dân gian
Nguyễn Bảo Sinh, khi tác giả bình bốn câu lục bát của ông :
Cùng
chung một chuyến đò ngang
Kẻ
thì sang bến người đang trở về
Lái
đò lái mãi nên mê
Sang về không biết mình về hay sang
Vẫn
là những thủ pháp mà bất cứ người bình thơ nào cũng phải vận dụng : bình từ ngữ,
phân tích hình ảnh, so sánh, liên tưởng, phân tích liên văn bản,… nhưng nhà
bình thơ Hoàng Dân đã đem vào đó cái riêng, cái vốn sống, vốn trải nghiệm và cả
cách tiếp cận không giống ai. Vì vậy mà
người đọc bị cuốn hút, bị thuyết phục một cách khá thoải mái, tự nhiên.
Là
người viết phê bình văn học có chút thành tựu về bình thơ, tôi thực sự vui mừng
với thành quả lao động của một người đa tài như Hoàng Dân trong phạm vi viết lời
bình cho những áng thơ hay, bao gồm cả thơ dân gian và thơ hiện đại.
Hà Nội,
ngày 10 tháng Giêng năm Canh Tý 2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét