TRAO ĐỔI VỀ “QUÊ NGHÈO” VỚI CÔ NGUYỄN BÍCH THỦY
Phạm Đức Nhì
Với bài
viết Vài Ý Kiến Quanh Việc Mổ Xẻ Bài Thơ “Quê
Nghèo” Của Đặng Xuân Xuyến cô
Nguyễn Bích Thủy đã có nhã hứng ghi
lại một số nhận xét về Mục thứ 5 – Ưu Điểm Về Mặt Thi Pháp Trong Bài Thơ “Quê Nghèo” - trong bài viết Bình
Thơ Không Bàn Thi Pháp của tôi.
Nhận xét của cô thiên về cảm tính
nên dù có nhiều chỗ cô phân tích rất sâu sắc, nhiều tính
thuyết phục, vẫn còn
vài điểm tôi thấy cần trao
đổi với cô để làm rõ
vấn đề. Bài viết này chỉ nhắm vào
những điểm cần thiết đó. Nếu độc giả muốn đọc cả bài viết của cô
NBT thì link ở ngay sau đây:
1/
Nguyễn Bích Thủy:
Chưa bàn đến hay, không hay nhưng tôi thích bài thơ ở chỗ nó chân thực nhưng tôi không thích tứ thơ này:
“Chiếc cổng làng thành tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
.
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ...”
Đây là chủ quan của tác giả. Tôi nghĩ hãy để cho nó tự nhiên như vốn có.
Phạm Đức Nhì:
Nếu cô NBT chỉ nói “nhưng tôi không thích tứ thơ này” thì chẳng ai dám có ý kiến gì. Vì thích hay không thích cái gì đó là quyền riêng tư của mỗi người. Cái sai của cô là ở câu “Đây là chủ quan của tác giả”. Nếu cái gì trong thơ cũng là “thực tế khách quan”, cũng “phải đạo”, cũng hợp với lẽ đời thì cái loại thơ ấy không đáng để ý, không phải là thứ thơ mà nhân loại đang hướng tới.
Dĩ
nhiên trong thơ cũng có những nhân tố khách quan, nhưng những ý nghĩ, cảm giác chủ quan của tác giả là chính. Nhiều khi những cái khách quan được đưa vào bài thơ chỉ để làm nổi bật những ý nghĩ, cảm giác chủ quan của tác giả. Chính “chủ quan của tác giả” mới làm bài thơ có cá tính
(không chỉ viết về những cái ai cũng biết rồi), mới làm nên giá trị của bài thơ, miễn là những “chủ quan của tác giả” hợp lý hợp tình và những sự kiện khách quan cũng
hợp tình hợp lý.
Câu
nói của cô NBT có hai phần; phần đầu đúng, còn phần sau thì sai nặng.
2/
Nguyễn Bích Thủy:
Dù cho tôi không biết bác là ai, nhưng
qua lời
góp ý, phê bình của
bác tôi thấy
bác là người
thẳng
thắn
và khá chân tình, tất
nhiên kẻ
sỹ
Bắc
Hà không ai tránh khỏi
một
chút
kẻ
cả
khi bác nói: “Muốn
đem một
bài thơ
nào đó của
anh ra mổ
xẻ
để
‘mách nước’
cho anh bứt
phá chạy
mau đến
‘bến
bờ
thi ca’”.
Điều
này chả
ai giúp ai được
bác ạ,
vì nó tự
nhiên như
ánh trăng, như
cảm
xúc lúc yêu đương
phải
không bác?
Phạm Đức
Nhì:
Thích bóng đá nên có một thời
gian ngắn
tôi được
một
người
bạn
mời
đi xem những
trận
đấu
của
các đội
tuyển
xã tranh vô địch
cấp
huyện.
Mục
đích của
anh bạn
là muốn
nhờ
tôi “xem giò, xem cẳng”
những
cầu
thủ
trẻ.
Nếu
thấy
em nào “đá có nét”, có triển vọng anh sẽ
tìm cách rủ
rê, mời
gọi
về
làm lực
lượng
trừ
bị
cho đội
tuyển
của
một
ngành công nghiệp.
Anh cho tôi biết
hãy chú trọng
vào cách giữ
bóng, che bóng, đi bóng, lừa bóng, khả năng sút bóng xa
của
các em, còn những
kỹ
thuật
khác khi tuyển
về
sẽ
huấn
luyện
thêm.
Trong thơ cũng vậy. Có thể
nói ngoại
trừ
cảm
xúc ở
tầng
3 - thứ
cảm
xúc mà nếu
lên đến
đỉnh
điểm
khi bài thơ
có cao trào sẽ
thành hồn
thơ
– là không ai có thể
dạy
ai đưa
nó vào bài thơ
được.
Còn thì - đặc
biệt
ở
phần
thi pháp, mang tính kỹ
thuật
– cái gì cũng có thể
học
hỏi
được.
Dĩ nhiên, học
là học
lý thuyết.
Bước
vào thực
hành, mỗi
người
một
vẻ,
kẻ
thất
bại,
người
thành công, chẳng
ai dám nói mạnh.
Riêng với
Đặng
Xuân Xuyến,
tôi đã “xem giò, xem cẳng”,
đọc
thơ
của
anh khá nhiều
và đã “chấm”
sự
đột
phá trong thi pháp của
anh. Trong bài Quê Nghèo, về hình thức anh đã đạp
đổ
truyền
thống,
vượt
qua thơ
mới,
đang trụ
ở
thơ
mới
biến
thể
mà những
sợi
dây níu kéo đang đứt
dần
để
vươn
tới
một
thể
thơ
“chưa
có tên” - vần
vừa
độ
ngọt,
tứ
thơ
thông thoáng,
nhịp
độ
thay đổi
theo cảm
xúc đang chảy
thành dòng ... - nếu
viết
trong tâm thế
cực
kỳ phấn
khích có thể
thẳng
hướng
“Bến
Bờ
Thi Ca”.
Những
khuyết
điểm,
sai phạm
về
mặt
câu chữ,
ngay cả
thế
trận
cũng có thể
sửa
chữa
không mấy
khó khăn, nhưng
cái tay
nghề
vững
vàng đã trở
thành thói quen trong thi pháp của anh không thể
một
sớm
một
chiều
mà có được.
Nếu
ĐXX nghe lời
“mach nước”
của
tôi, nhận
ra khả
năng và thế
mạnh
của
mình, anh sẽ
tự
tin hơn
khi viết
những
bài thơ
kế
tiếp.
Với
thơ
thì không nói chắc
được,
nhưng
anh ĐXX còn trẻ,
thời
gian dành cho thơ
còn dài, việc
để
lại
cho đời
một
đôi bài thơ
sáng giá không phải
là điều
không tưởng.
Cô NBT cho rằng “Điều này chả
ai giúp ai được
bác ạ,
vì nó tự
nhiên như
ánh trăng, như
cảm
xúc lúc yêu đương” là do cô đọc
thơ
chỉ
như
người
“cỡi
ngựa
xem hoa”, chưa
đi sâu nên chưa
hiểu, chưa biết.
3/
Nguyễn Bích Thủy:
Nếu nghe câu này
chắc chắn lúc đầu tác giả không tránh khỏi bị sốc vì có người chê đứa con của mình ngay cả người đó là mẹ vợ mình đi nữa: “Thật tình, đây là bài thơ còn khá xa mới đến mức hoàn hảo. Có đến vài chỗ sai phạm, hoặc nếu không sai phạm thì cũng chưa hoàn chỉnh, có thể o bế, trau chuốt để bài thơ hay hơn.”.
Điều này rất thẳng thắn, tuy nhiên cũng là ý nghĩ chủ quan của bác PHẠM ĐỨC NHÌ
vì thơ phú là cảm xúc của từng người, nhất là thơ mới, không theo bất cứ một bó buộc, nguyên tắc gì.
Phạm Đức Nhì:
Bình
thơ là công việc nặng tính chủ quan. Người bình đem kiến thức về thơ, cách đánh giá thơ ca của mình để thẩm định giá trị nghệ thuật của bài thơ. Dĩ nhiên, ngoài một số rất ít những tác phẩm hoàn hảo, mỗi bài thơ – “dù là cảm xúc của từng người” - đều có chỗ hay, chỗ dở, có khi có cả những chỗ sai phạm. Nhiệm vụ của người bình là chỉ ra những chỗ hay, vạch ra những chỗ dở, chỗ sai phạm để cuối cùng cân nhắc, khen, chê bài
thơ cho đúng mức.
Thí
dụ bài Quê Nghèo của ĐXX tác giả đã sử dụng hai chữ “oan khiên”
trong câu:
Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ
với nghĩa sai lạc mà nhà bình thơ Nguyễn Bàng đã vạch ra rất tinh tế, chính xác trong phần chú thích “Góp ý riêng với tác giả về một câu thơ”. (1) Rõ ràng đây là một chỗ sai phạm.
Rồi còn mấy câu nói về “Lũ trẻ” trong làng:
Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó
Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc
Còn
“lũ con gái thì sao? ĐXX đã quên nên để độc giả vừa đọc vừa mỏi cổ ngóng chờ. Đây cũng là một chỗ sai phạm.
Câu
thơ:
“Tù túng giấc mơ”
trong
đoạn:
Chiếc cổng làng thành tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
theo
tôi, thật tuyệt vời.
Nhưng đã làm 2 câu:
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ.
mất tính bất ngờ và nhạt hẳn đi về mặt ý nghĩa. Vụng về trong sử dụng điệp ngữ đã làm hỏng 2 câu kết. Có thể nói trong Quê Nghèo đội của ĐXX đi bóng, lừa bóng, chuyền bóng rất điệu nghệ nhưng khi đến sát cầu môn đối phương thay vì ghi bàn thắng lại đá ra ngoài.
Tôi,
ở đây không bình
thơ mà chỉ bàn đôi chút về thi pháp nên không đi sâu thêm nữa.
Còn
nói như cô NBT “nhất là thơ mới, không theo bất cứ một bó buộc, nguyên tắc gì” thì đúng là một phát biểu kiểu “điếc không sợ súng”. Cô chỉ cần tìm đọc kỹ vài bài thơ mới thì sẽ nhận ra là mình ngây ngô đến cỡ nào.
4/
Nguyễn Bích Thủy:
“người đọc
thơ
cũng chả
ai được
học
và cần
học
Thi pháp, thích thì đọc; đọc
xong thì bảo
hay, khá hay, chưa
hay hoặc
dở,
quá dở,
thế
thôi!”
Phạm Đức Nhì:
Những người đã lỡ yêu thích thơ, nếu có cơ hội, đều muốn tìm học để nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ thưởng thức thơ của mình. Trong những lúc họp mặt bạn bè, đám tiệc, nói chung là trà dư tửu hậu, có nói đến bài thơ tình này, bài thơ thế sự kia thì cũng biết đôi điều góp chuyện. Chứ cứ như cô NBT “thích thì đọc;
đọc
xong thì bảo
hay, khá hay, chưa
hay hoặc
dở,
quá dở,
thế
thôi!” lỡ
nguời
ta hỏi
“Hay ở
chỗ
nào? Tại
sao hay? Dở
ở
chỗ
nào? Tại
sao dở”
lại
ngớ
mặt
ra im lặng
thì ngượng
chết.
Thưởng
thức
thơ
có nhiều
trình độ.
Muốn
nâng cao trình độ
của
mình không gì bằng
tìm hiểu
thi pháp. Chữ
thì hơi
cao siêu nhưng
nghĩa thì lại
đơn
giản
– chỉ
là kỹ
thuật
thơ
hoặc
hình thức,
vóc dáng của
bài thơ.
Tôi nhớ
hình như
đã viết
ở
đâu đó:
Có tý hiểu biết
về
kỹ
thuật,
các tiêu chí để
thẩm
định
giá trị
thi ca, người
đọc
sẽ
không còn
ù ù cạc
cạc
khi đọc,
khi nghe hoặc
ngâm nga những
vần
thơ
ưa
thích mà sẽ
tự
tin hơn,
sảng
khoái hơn
thả
hồn
vào dòng thơ.
Đọc
thơ
bằng
trí sẽ
không thấy
được
hơi
nóng cảm
xúc, sẽ
không cảm
được
cái hay trọn
vẹn
của
thơ,
không “bắt”
được
hồn
thơ
(nếu
có).
Còn nếu
chỉ
đọc
thơ
bằng
hồn,
không có sự
soi sáng của
kiến
thức
thì một
là, có khi gặp
tuyệt
tác thi ca thì lại
dè bỉu,
chê bai, hai là, suốt đời
“tự
sướng”,
sướng
mà không biết
vì sao mình sướng,
miệng
ngâm nga những
vần
thơ
“cả
đẩn”
mà mắt
cứ
sáng long
lanh, mặt
cứ
rạng
rỡ
như
đóa hoa xuân. Đó là cái sướng của
những
kẻ
“ngây ngô hưởng
thái bình” rất
tội
nghiệp,
rất
đáng thương.
Trong
quân đội người ta thường nói “Nhìn quân phục biết tư cách”. Thi pháp
quan trọng đến mức trong thơ, theo tôi, câu tương tự sẽ là: “Nhìn thi pháp biết đẳng cấp của thi sĩ”
5/
Nguyễn Bích Thủy:
Vài ý kiến riêng của một người ngoại đạo. Ai thích thì like, ai không thích cứ việc ném đá, tôi ở xa, đá không đến tận nơi.
Phạm Đức Nhì:
Cô
NBT đừng lo. Trong
tranh luận văn chương, nếu cứ nhắm vào đối tượng tranh luận (là văn chương) mà bàn cãi thì dù đúng hay sai
cũng được độc giả hoan nghênh, vì bất cứ cuộc tranh luận văn chương lành mạnh nào cuối cùng cũng đem lợi ích đến cho văn chương, cho độc giả và cho cả đôi bên tranh luận. Miễn là đừng nhắm vào “chủ thể đối luận” mà phang, mà bửa – nghĩa là đừng chơi trò bỏ bóng đá người. Chơi kiểu đó thì dù ở Bỉ hay chui vào hang sâu hố thẳm nào đó ở Thái Bình Dương người ta vẫn ném đá. Và đã
ném là trúng đích.
Kết Luận
Qua bài viết Vài Ý
Kiến Quanh Việc Mổ Xẻ Bài Thơ “Quê
Nghèo” Của Đặng Xuân Xuyến cô
Nguyễn Bích Thủy đã bộc lộ khá rõ
một điều. Những gì
cô cảm nhận - về mặt tình
- rất chính xác và sâu sắc, chứng tỏ cô có
một tâm hồn nhạy bén và có nhiều trải nghiệm về mặt tình
cảm trong cuộc sống. Nhưng những phát
biểu của cô liên quan đến mặt lý - ở đây là
sự hiểu biết về thơ – thì
lại mắc nhiều sai
sót. Chỉ cần có thêm chút ít nội lực ở phần này
những “góp ý” của cô không những sẽ được độc giả đặc biệt hoan
nghênh mà, đối với thơ, lại còn
là những đóng góp rất hữu ích nữa.
Phạm Đức Nhì
CHÚ THÍCH:
1/
Góp
ý riêng với tác giả về một câu thơ:
Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ
Tiểu thuyết “Sống mòn” đề cập đến một vấn đề nhức nhối của người trí thức trong thời đại cũ, những văn nghệ sĩ nhiều khao khát, giàu lý tưởng nhưng cuộc sống cứ mòn dần, lụi dần bởi mối lo cơm áo. Giáo Thứ trong tác phẩm “cũng mang tiếng ông giáo với bà giáo, quần áo là, sơ mi trắng, thắt ca vát, giầy tân thời, thứ Năm, Chủ Nhật diện ngất, tưởng mà mỡ lắm, thế mà kì thực bụng chứa đầy rau muống luộc”. Chứ Giáo Thứ có oan khiên gì
đâu?
Tôi
nghĩ có lẽ đúng nên là: “Tiếng oan khiên từ thời anh Pha”
Anh
Pha trong “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan, một nông dân nghèo khổ, sống thật thà, chân chất nhưng lại không tránh khỏi “tai bay vạ gió” từ những con người tưởng như cũng bần cùng như anh nhưng vẫn thiếu mất sự cảm thông và cái
tình, cái nghĩa như Trương Thi rồi đến bọn thống trị hách dịch bạo tàn, ra sức cướp bóc tô thuế, không ngần ngại tra tấn những người nông dân cùng
khổ như tên địa chủ Nghị Lại và bọn Quan huyện, lính lệ không ngừng tìm mọi cách vơ vét người nông dân đến khánh kiệt và đưa anh Pha đến bước đường cùng. (Nguyễn Bàng)
Trên
đây là “góp ý riêng” với tác giả của nhà bình thơ Nguyễn Bàng. Ông Nguyễn Bàng đã vạch ra rất tinh tế và phân tích chính xác việc anh ĐXX đã dùng không đúng từ “oan khiên” trong bài thơ của mình. Nhưng cách ông NB
góp ý phê bình thì, theo tôi, lại có cái gì đó
không được “thẳng thắn” lắm. Trong bài bình ông đã khen bài thơ đủ điều nhưng có từ (oan khiên) dùng sai thì lại không chê thẳng thắn ở đó (hoặc email riêng cho anh ĐXX để sửa chữa) mà lại “nói nhỏ” cho anh nghe ở phần ghi chú ở cuối bài. Tôi có cảm tưởng đang bàn chuyện Quê Nghèo trước một đám đông bạn bè yêu thơ ông NB bấm anh ĐXX ra một chỗ kín để - một cách tế nhị - phân tích khuyết điểm “oan khiên” cho
anh nghe. Có điều ông lại nói vào micro nên không những bạn bè mà cả làng trên xóm dưới đều nghe hết. Tôi không nghĩ
là ông “thâm”, nhưng tế nhị, kheo léo quá mức đã trở thành kiểu cách, giả tạo . Mà tại sao phải làm thế nhỉ?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét