KHÁM NHÀ CHÉM ĐẦU
Doãn Toàn
Sinh
Vũ Công Hoan dịch
Giữa bạt ngàn cỏ xanh mơn mởn,
Rừng đào vạn đoá cười đón gió xuân
Con đường rừng len lỏi lúc ẩn lúc hiện. Hoàng Đế Càn Long cải trang làm khách du hành đi xuống Giang Nam.
Trên
đường du hành
đi qua dãy núi mù mây, mây mù quấn quýt, khi đang
thưởng ngoạn cảnh đẹp sắc xuân, nhà vua bỗng dưng ôm
bụng kêu
đau, thầy
thuốc đi theo trổ tài vô hiệu, đám đông tuỳ tùng đành phải hộ tống
Hoàng
đế vào một ngôi đền cô độc gần đó tạm nghỉ.
Một nhà sư già ngoài bảy mươi tuổi đã phải
thân chinh đứng ra đón tiếp những vị khách không mời mà đến. Thầy
thuốc đi theo nhà vua tự xưng bừa đoàn mình là khách buôn trà, hiện tại ông chủ mắc bệnh nguy cấp, muốn
phiền nhà
sư cho vào
trong đền nghỉ chân một lúc rồi sẽ tính sau. Nhà sư thấy Càn Long bụng đau quằn quại, lăn ra nền nhà kêu trời kêu đất, ngài bỗng sinh lòng từ bi, tự nhận mình thông thạo nghề y, sau khi nhìn, nghe, hỏi han bắt
mạch, nhà
sư pha một bát
trà
mời Càn
Long uống. Không ngờ sau khi nước trà vào bụng, Càn Long chợt giảm cơn đau,
bỗng dưng khỏi hẳn. Thầy thuốc đi theo hầu vua sung sướng vô cùng liền hỏi nhà sư: Chỉ một bát nước trà xanh, tại sao lại có hiệu quả kỳ diệu như thế? Nhà sư già cười đáp: Trà này là vật quí hiếm, có tác dụng dãn khí thông mạch, ông chủ
các
ngài
chuyển nguy thành
an là
may lắm, may lắm!
Trong bụng Càn Long thư dãn lâng lâng
như tắm suối trong, như gội gió xuân, mùi thơm lan toả từng hồi trong miệng, như từng quen biết, do đó nhà vua lên tiếng hỏi tiếp: - Trà của nhà sư có phải là loại trà tinh
khôi khỉ?
Nhà văn Vũ Công Hoan
Nhà sư chợt ngẩn người hỏi: Tại sao tiên sinh biết tên loại trà này?
Trà xanh Càn Long vừa uống chính là thứ trà quí hiếm có tên “Tinh khôi khỉ”. Năm nào các quan phủ địa phương cũng tiến cúng Triều đình loại trà này.
Thứ trà tinh khôi khỉ này bắt nguồn từ bàn tay của con khỉ.
Ngôi đền cô độc, chung quanh
núi
non trùng trùng vây bọc, khỉ rừng thường hay ra vào ngôi đền, lâu dần đã
hết sức thân quen với vị sư già, hai bên có thể lấy tay ra hiệu để trao đổi câu thông với nhau. Năm
nào
cũng thế, cứ sau trận mưa tuyết lớn cuối đông, ăn hết thức ăn dự trữ, khỉ rừng
không thể kiếm đâu ra thức ăn trong mưa tuyết mênh mông, khi bụng đói lép kẹp, chúng vào nhà chùa tìm đồ ăn, đã được nhà sư già từ bi rủ lòng thương xót lần nào cũng được nhà sư cho ăn. Lũ khỉ được ăn biết ơn đền đáp. Mỗi khi băng tuyết
tan, đến mùa
cây trà
nẩy mầm, chỉ cần nhà sư dơ tay ra hiệu leo lên vách núi hái búp chè là chúng hiểu ý leo lên các dốc đứng tai mèo, hái những búp chè rừng non xanh vừa mới đâm chồi nẩy lộc hàng năm đem về biếu vị sư già.
Giữa chốn rừng sâu núi thẳm xa hàng trăm dặm, mây mù bao phủ mênh mông, đâu đâu cũng
vách
đứng cheo leo hiểm trở, con người rất khó đặt
chân đến, chỉ có chim đưa xuân
về, én mang thu đi, như cõi nhân gian mà như không phải cõi
nhân gian, chỉ có mù bay trăng lặn, mây đùn nắng gội, như
cõi tiên
mà
như không phải cõi tiên. Trên miền đất hứa cảnh tiên cách biệt hẳn với coĩ trần gian này, những cây trà hoang dã trải qua mây
ngâm mù
thấm, lá
chè
non mọc ra có thể nói không có bất cứ thứ lá chè do con người trồng ra có thể so sánh nổi. Thứ của quí nhân gian này, lúc đầu vị sư già tự mình hưởng thụ, về sau ngài đã đem biếu cho khách đi buôn cùng thưởng thức. Do đó cái tên nổi tiếng “tinh khôi
khỉ” đã dần dần loang xa, cuối cùng được
các quan l ại địa phương thu thập tiến cúng Triều đình....
E ngại bộc lộ thân phận của
mình, vua Càn Long nói
dối mình là cao thủ thưởng thức trà, đã nhiều lần phụng
chiếu nhà vua vào Hoàng cung uống trà bình phẩm, do đó ngài không lạ gì loại trà tinh khôi khỉ. Ngài hỏi:
- Nhưng, không hiểu tại sao, thứ trà tinh khôi khỉ ta
uống trong Hoàng cung có vẻ kém xa vị thơm ngon tinh khiết của thứ trà ta vừa uống?
Nhà sư già thật thà trả lời:
- Đây là chút ít chính phẩm
tôi giữ lại được. Trà cúng biếu có trộn thêm trà tạp, đương nhiên mùi vị kém xa.
Tại sao trà cống biếu nhà
vua lại trộn lẫn trà dổm? Triều đình ban thưởng rất hậu cho những quan chức địa
phương đã tiến cúng trà ngon cho nhà vua. Nhưng loại tinh khôi trà chính phẩm rất
hiếm, thường là một năm cũng chỉ có được
trên dưới nửa kg là nhiều. Để được Triều đình
trọng thưởng, các chức sắc địa phương liền ra lệnh cho thảo dân miền núi nơi đó
hái búp trà non, đem hai thứ trộn vào nhau, để lấy tiếng tinh khôi trà đem tiến
cúng. Lá chè dân miền núi hái về, tuy cũng đều là loại trà búp non lứa đầu vụ
trong năm, trông bề ngoài cũng tương tự, nhưng dù sao đi chăng nữa phần lớn là
cây trà nhà trồng, làm sao mà bì nổi thứ trà hoang mọc trên vùng đất sạch cảnh
tiên quanh năm dãi gió dầm sương, mây hun ráng luyện, đương nhiên phẩm chất hơn
hẳn, chẳng khác gì nhân sâm người trồng và nhân sâm mọc hoang, không thể coi
ngang hàng về công dụng và vị bổ, đương nhiên ngài thưởng thức mùi vị có khác.
Không hề biết thân phận của
nhà vua, nhà sư già thật thà như đếm, có
sao nói vậy cứ tuồn tuột nói rõ nguyên nhân với khách lạ. Sau đó cứ tấm tắc
khen Càn Long dầy công thưởng thức bình
phầm trà.
Sau khi tỏ lời cảm ơn chia
tay nhà sư già, vua Càn Long đi ra khỏi ngôi
đền lẻ loi.
Vẫn là giữa bạt ngàn cỏ xanh mơn mởn, rừng
đào vạn đoá cười đón gió xuân. Nhưng vua C àn
Long không còn b ụng dạ nào xem hoa ngắm
cảnh, nét mặt hằm hằm nhà vua nói với thầy thuốc:
- Thi thoảng được nhà sư già
cho ăn, con khỉ còn biết nhớ ơn báo đáp,
nhưng bọn chức sắc quan lại suốt đời được
hưởng bổng lộc của triều đình lại lừa dối nhà vua. Bọn chúng không được như con
khỉ .
Sau khi về Kinh, vua Càn Long lập tức ra lệnh cho Bộ hình thẩm
tra xét xử vụ tinh khôi khỉ ở núi mây mù. Lời chiếu viết:Làm ăn giả dối thuộc tội
phạm thượng lừa vua, phàm là những kẻ can gián nghi ngờ, đều bị khám nhà chém giết.
Nhận thấy hình phạt hơi nặng,
một vị đại thần lên tiếng
khuyên can. Nhưng nhà vua gạt đi:
- Lũ quan chức này dám giả dối đối với Triều
đình, thì đối xử với dân sẽ ra sao? Không
giết bỏ sạch sành sanh
bọn chúng , thiên
hạ tất sẽ rối ren, không một ngày yên ổn.
Khi biết chuyện các quan chức
địa phương bị khám nhà chém đầu suốt lượt,
mà tai họa lại do mình gây nên, nhà sư già tự cảm thấy không xứng đáng với tâm
nguyện bao la của nhà Phật, vô cùng hối hận, đã nhảy xuống sông tự vẫn.
Năm tháng qua đi “đào hoa y
cựu tiếu xuân phong”( “Hoa đào năm ngoái
còn cười gió xuân”), nhưng từ ngày nhà sư gìa nhẩy xuống sông tự vẫn, trà tinh
khôi khỉ cũng tuyệt tích khỏi cõi người.
Vũ Công
Hoan dịch
(Theo Tiểu tiểu thuyết năm 2006)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét