VĨNH BIỆT NHÀ THƠ HOÀNG TRẦN CƯƠNG!
Nhà thơ Hoàng Trần Cương đã rời cõi tạm.
Xinh chia buồn sâu sắc với gia đình!
Cầu chúc cho linh hồn nhà thơ Hoàng Trần Cương siêu thoát miền Cực Lạc!
Xin đăng lại bài viết về thơ của anh như nén nhang tiễn biệt!
Chủ trang vunhonb.blogspot.com
Nhà thơ Hoàng Trần Cương đã rời cõi tạm.
Xinh chia buồn sâu sắc với gia đình!
Cầu chúc cho linh hồn nhà thơ Hoàng Trần Cương siêu thoát miền Cực Lạc!
Xin đăng lại bài viết về thơ của anh như nén nhang tiễn biệt!
Chủ trang vunhonb.blogspot.com
HOÀNG TRẦN CƯƠNG – NHỮNG
VỈA THƠ TRẦM TÍCH
Đọc Hoàng Trần Cương – Thơ và trường ca, Nxb Hội Nhà văn,
2014
Một
tuyển tập sớm thơ và Trường ca của Hoàng Trần Cương gần 500 trang in khổ 14,5 x
20,5. Cuối tập có phụ lục 26 bài của các nhà nghiên cứu, phê bình và bạn thơ viết
về thơ của tác giả. Không phải nhà thơ nào cũng có được con số ấn tượng như vậy.
Và tôi tin với những vỉa thơ trầm tích của nhà thơ họ Hoàng, còn nhiều chỗ cho những
người nghiên cứu phê bình khai thác lâu dài trong hiện tại và tương lai.
Vài
lần tiếp xúc với Hoàng Trần Cương, thật chẳng tìm thấy dấu hiệu thi nhân nào ở
con người này. Hình hài thì gân guốc, có nét khắc khổ, phong trần của người thợ
bốc vác. Anh đã chẳng hề điểm tô chút son phấn nào khi vẽ lại khá chính xác
chân dung mình: “tính khí lại thất thường
như nắng/ Mặt gầy choắt mà đồng nghiệp gọi là “thằng mặt nặng” (Bút kí thơ
của một kế toán trưởng). Đây nữa “Mặt anh
buồn như đá/ Ai vứt ra ngoài đồng” (Đợi). Đúng là “cái mặt không chơi được”
trong truyện ngắn Nam Cao. Ngôn ngữ nói năng thì mộc thô, trần trụi, chả có tí
hơi hướng văn chương nho nhã nào. Thế nhưng tất cả vẻ thô mộc của hình hài và
ngôn ngữ ấy, trầm tích trong đó một sức vóc thơ vạm vỡ (chữ của Bằng Việt),
một hồn thơ đa cảm, ngọt ngào tình người
đọng mật, một khí chất xứ Nghệ, khí chất miền Trung “sắc như cật nứa” cứng cỏi và dữ dội “nghiêng đêm,… lệch ngày” !
Ấn
tượng mạnh mẽ của thơ Hoàng Trần Cương với tôi, trước hết là sự chân thành,
trung thực của nhà thơ. Có thể nói quá đi, có thể dùng mọi thủ pháp, kĩ thuật. Nhưng
trước hết, thơ phải chân thành, phải trung thực. Cái chuyện vẽ mặt mình bằng
thơ của anh, cho thấy phẩm chất đó. Và đây, khi ngồi với người cựu chiến binh của
đối phương dù bây giờ là bạn nhưng nhà thơ –lính Hoàng Trần Cương không giấu diếm:
Rồi
đột nhiên bỗng im lặng cả hai
Có
lẽ anh đang nghĩ như tôi đấy:
“-
Trong cuộc chiến ở Việt Nam
dạo ấy
May
mà mày không gặp tao
May
mà tao không gặp mày!”
Đôi mắt đối
phương
(Đọc
những câu thơ này, thốt nhiên lại liên tưởng đến người cựu chiến binh Mĩ- Bruce
Weigh trong cuốn Chân dung và đối thoại
của Trần Đăng Khoa, khi anh bất ngờ đụng độ người du kích ở Khe Sanh. Nhưng đó
là trường hợp cá biệt trong chiến tranh).
Có thể thấy những nét
chân dung chân thật của người thơ, từ chuyện “đẻ rơi bên cối giã gạo” , đến chuyện cởi trần, “vác gươm cọng chuối múa khắp làng” làm vỡ
vại nhút thức ăn cất trữ cả nhà trong mùa lụt, hay chuyện đói khát của một nhà,
nhưng cũng là cả một vùng quê, cả nước thời khốn khó đầy ấn tượng:
Tảng cháy cậy đi rồi/ Còn hằn vết móng tay/Cày
lên/ Sưng cả đáy nồi
Trầm tích- Nguồn cội
Hoàng Trần Cương mang
tính cách rắn rỏi, thẳng thắn, rạch ròi của người xứ Nghệ. Có phải thế chăng mà
thơ không bóng bẩy, không đèm đẹp, không làm duyên. Và tính cách cũng thế, mạnh
mẽ, dứt khoát “Đã chơi chơi hết mình/ Đã
làm làm kiệt sức/ Thẳng thắn và đẫm tình” (Trầm tích – Cá gỗ). Đằng sau cái
vẻ cứng cỏi, ngang tàng ấy lại là một tâm hồn đa cảm, yếu đuối, và đầy nỗi buồn,
cô đơn: Có một chiều ngoảnh lại/ Cô đơn đứng
chật nhà (Nỗi niềm); Ngang qua em có
thấy/ Nỗi buồn còn run cây (Vô tình); Vết
đi của thời gian xếp nỗi buồn xạm trán (Cơn mưa không tạnh); Có những chiều mưa xối/ Mặt bợt như bã chè
(Hương chè Phú Thọ); Có những ngày cực nhọc/
Ngực ta hóa than hồng/ Nỗi buồn lem lém cháy (Cháy); Anh cắm sào trước dòng sông héo sóng/ Nghe bãi bờ khò khè dưới chân (Sang
sông); Cảm lạnh hắt từ trời/ Trái tim tôi
chuột rút (U Minh); Kí ức đè nhức
đêm/ Kỉ niệm niêm cất những mầm măng nhọn hoắt (Đỉnh Vua)… Buồn nhiều, cô
đơn, nhưng Hoàng Trần Cương không chìm lút vào những tình cảm đó. Anh biết “Lấy buồn làm vui/ Lấy vui để mộng” (Giao
mùa). Sau giây phút “Bợt bạt mặt người
trong cơn giông” là thời gian “Trăng
lại treo mơ mộng trước hiên nhà” (Dấu vết tháng ngày). Cho nên thơ của anh
là phức hợp của buồn lẫn vui, cô đơn và hòa đồng, yếu mềm và mạnh mẽ, tỉnh táo
và mộng mơ, tinh lọc và thô nhám, cô đúc và phóng khoáng, cụ thể và khái quát,…
Người ta nói nhiều đến chất Nghệ, chất miền Trung trong thơ
Hoàng Trần Cương. Một nhà thơ với giọng điệu không thể lẫn, đậm cá tính và đậm
màu sắc địa phương. Không phải là dân Nghệ, dân miền Trung không thể nào viết
những câu thơ gan ruột về quê hương:
Miền
Trung/Tấm lưng trần đen sạm
Những
đốt sống Trường Sơn lởm chởm dăng màn
…
Miền
Trung/Câu ví dặm nằm nghiêng/ Trên nắng và dưới cát
Đến
câu hát cũng hai lần sàng lại/ Sao lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm
…
Mảnh
đất nghèo mồng tơi không kịp rớt/Lúa con gái mà gầy còm úa đỏ
Chỉ
gió bão là tốt tươi như cỏ/ Không ai gieo mọc trắng mặt người
Trầm
tích – Miền trung
Đến cả câu hát của người
bà cũng gầy gò, như mới ốm:
Câu ví dặm gầy nhom
thì thào như người mới ốm
Từ trong cái đãy nâu sồng thắt ngang
lưng bà tối tối lại bò ra
Trầm
tích – Nguồn cội
Nhà thơ đậm chất Nghệ,
đậm chất miền Trung. Điều đó hoàn toàn chính xác. Nhưng ngoài chất Nghệ cứng cỏi,
mạnh mẽ, đầy ý chí nghị lực vượt nghèo, trong thơ Hoàng Trần Cương còn đậm chất
lính, đậm dấu ấn trận mạc. Anh thú nhận không giấu diếm:
Bây
giờ anh vào tuổi bốn mươi/ Vẫn hốc hác khuôn mặt thời lính trận
Sấp ngửa bàn tay
Người lính đã vào đời theo cách nhìn của ngành
tài chính qua con mắt kinh doanh:
Con
mang sức trai/ Chọi cùng súng đạn/ Mang mạng sống của mình hùn với bao đồng đội/
Kinh doanh trên trận mạc/Giành giật với đạn bom/Phần đất lãi
…
Con
vẫn tung cuộc đời con –chút- vốn – liếng – cuối – cùng- của mẹ lên chặn họng
súng thù/ Cùng đồng đội gom từng phân lợi nhuận/ Để gộp vào hôm nay
Trầm tích – Vốn và lãi
Những tháng ngày “Đọ sức với quân thù tận rừng sâu núi thẳm”
, từng chứng kiến “ngực bạn tôi máu xối”
, từng “run run vuốt xuôi đôi mắt/ Đồng đội
con chưa kịp nhắm” , và đã từng “phơi
mình trước mưa bom bão đạn/ Ngót mười năm chọi súng với quân thù” (Lòng tốt)
cho nên người lính ấy biết quý những gì mình có được, biết đau nỗi đau đồng đội
“Khi tuổi xanh các anh thôi thêm tháng
thêm ngày” , biết cảm nhận “cỏ vẫn bạc
đầu/ Thương nhớ cắm hoa mờ bia trắng/ Hương trầm thấm xuống mấy tầng sâu” (Sấp
ngửa bàn tay). Và đau buốt trước nỗi đau của người còn sống:
Có
người lính mãn thời trai trẻ/ Người yêu/ Giờ đã lấy chồng/ Con búp bê mở mắt
tròn xoe/ Suốt ngày khóc trên tay con của người yêu cũ
Trầm tích – Mưa ốc đảo
Chính tâm hồn người
lính sống sót sau chiến tranh ác liệt đã làm thành một vỉa trầm tích quý giá
trong thơ của Hoàng Trần Cương.
Nhân vật trữ tình là chú bé đẻ rơi bên cối gạo, lớn lên
trong đói nghèo, vào trận chọi nhau với súng đạn, đối mặt với hiểm nguy, với
cái chết là nhân vật chính yếu của trường ca “Trầm tích” . Bên cạnh đó là người bà, người mẹ, những người anh em,
đồng đội, và cả em (trong chương Thiên nhiên, đầy ám ảnh với mấy dòng thơ: Em thấm vào anh/ Đam mê lịm ngọt/ Như ngải
như bùa/ Như bão như giông…Em ngang qua chiều/ Nắng thơm mùi rượu/ Mắt sông/
Môi lửa/ Gió lên đồng). Tôi muốn nói đến nhân vật đặc biệt là nhân vật MẸ. Ngoài
những dòng thơ cụ thể đầy xúc động về mẹ mà nhiều người khi viết về “Trầm tích”
đã không bỏ qua:
Treo vội con lên chạn
Mẹ xắn quần đi giành lại cái sanh đồng sứt
quai
Theo nước lũ nhoai ra ngoài ngõ/ Rồi một
tay chắn gió
Mẹ ngồi nhen lửa dưới mưa
Cật
tre
Cái nón mê mẹ đội nửa
đời người
Khi chóp thủng lại trùm lên vại nhút
…
Mẹ lật đật trèo lên đò ngang/ Quảy
theo con vào chợ
Gò lưng giữ cho cân đòn gánh/ Chỉ sợ
con lật người là đổ mất ngày mai
…
Mẹ lúi húi xâu đèn hạt bưởi/ Thổi nùi rơm
phù phù cho lửa rạng lên
Soi mặt chữ để con ngồi học
…
Sớm mai kéo sụp nón/ Sấp mặt ngồi cuối
chợ
Nhặt về những đồng xu bạc phếch đất
bùn
Thóc giống
Mẹ vén vun cưng nựng
nụ cười
Trên gương mặt thời gian còn rác rưởi
…
Mẹ là trầm tích của những gian truân
Những viên đá lẻ
Hình ảnh mẹ, tiếng gọi
mẹ có mặt trong các chương Nguồn cội, Đất
mật, Quặng lửa, Mưa ốc đảo, Hoàng hôn màu cỏ, Bóng đa làng, Địa linh, Cấu trúc
làng, Đá đỏ, Giao cảm phù sa, Vốn và lãi, Miền trung. Nghĩa là MẸ có mặt
trong 15 trên tổng số 19 chương của bản trường ca. Và có tới 15 lần tác giả gọi
“Mẹ ơi!” trong bản trường ca này. Mẹ là trầm tích của gian truân, của làng quê hoa trái, của bạt ngàn thương mến.
Mẹ là điểm tựa tinh thần, là đối tượng để nhà thơ giãi bày tình cảm, tâm tư. Người
Việt gọi “Mẹ ơi!” khi mà vui, buồn, đau khổ hay hạnh phúc ở mức mãnh liệt. Tiếng
gọi “Mẹ ơi!” của tác giả là trong những trường hợp đó. Đồng thời nó còn có chức
năng mở chương, mở đoạn để nhân vật trữ tình giãi bày bằng từ “con” đầy tình cảm
thân thiết và biết ơn. MẸ là một phần cấu trúc vững chắc của bản trường ca này,
và chính MẸ cũng làm cho bản trường ca “Trầm tích” khác biệt với những trường
ca khác.
Có thể nói thơ Hoàng Trần Cương là thơ có giọng điệu, có
phong cách riêng ám ảnh. Để có được điều đó, trước hết cường độ cảm xúc phải
mãnh liệt, mạnh mẽ. Không phải ngẫu nhiên mà các từ ngữ trong thơ của Hoàng Trần
Cương hầu hết đều là những từ ngữ chính xác, sống động, cưa quậy. Nó thể hiện
cường độ cảm xúc mạnh của tác giả. Không khó để nhận ra những: Rong róng nước mưa, Nỗi buồn lem lém cháy,
Ríu rít nắng ra ràng, Kỉ niệm phăng phăng về bến cũ, Nắng thất thanh, Kỉ niệm
trơ xương thất lạc, Nắng quáng quàng, mưa lắp bắp, Nắng nghiến ngấu ngày, mưa dằn
vặt đêm, Tiếng học bài nóng ran xóm nhỏ/ Tiếng gọi đò méo cả bến sông, Mưa xói
trắng đỉnh đầu/ Nước chảy đứt đuôi rắn…
Và những hình ảnh thơ của
Hoàng Trần Cương cũng vừa lạ, vừa sống động, vừa độc đáo cứ xộc thẳng vào trí
não người đọc:
Bỗng dưng trời đất
thâm sì/ Lốc rừng dựng đứng
Mây đặc trời/ Tối bưng/ Gió chém/ Mưa
đâm
Trầm tích- Thóc giống
Cay đắng lắng vào
trái ớt lúc còn xanh
Đất vắt kiệt mình mọng nước múi chanh
Trầm tích – Nguồn cội
Trăng đầu tháng đỏ ngầu
Như cái bã trầu ai nhè ngang đỉnh núi
Trầm tích – Thóc giống
Chiều buông áo mỏng
bay ngang phố
Thoáng bóng em về thơm lá non
Hơi ấm ban ngày
Những con cá ươn trên
thúng mẹt chợ quê
Ton tót nhảy khi nghe hơi tiền mới
Bút kí thơ của kế toàn trưởng
Bạn đọc có thể không
khó khăn gì tìm thấy các hình ảnh khác trong thơ và trường ca của tác giả.
Giàu
từng trải giàu chiêm nghiệm trong chiến tranh và hòa bình; cảm xúc mãnh liệt, từ
ngữ sống động, cựa quậy, hình ảnh độc đáo, những điều đó đã góp phần tạo niên diện
mạo và giọng điệu riêng của thơ Hoàng Trần Cương. Anh đến với thi đàn có muộn mằn,
nhưng tên tuổi anh là một trong những cái tên đáng nhớ của thế hệ thơ với những
Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Duy, Anh Ngọc,
Hoàng Nhuận Cầm, Trần Đăng Khoa…những nhà thơ áo lính.
Hà Nội, tháng 5/2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét