NHÌ NHẰNG CÙNG ĐỒNG ĐỨC BỐN
PHẠM CÔNG TRỨ
Tôi với Đồng Đức Bốn vốn không phải bạn tâm giao, mà chỉ là bạn thơ thuở “hàn vi”, nghĩa là cái thời anh còn “quần bò, mũ cối”, chưa thành “nhà”. Những năm tháng ấy chúng tôi có với nhau một số kỷ niệm, nay mới có dịp chia sẻ như những ký ức văn chương để tưởng nhớ 15 năm ngày anh về với đất mẹ.
Thoáng gặp Đồng Đức Bốn lần đầu tôi đã cảm nhận anh có “căn cước lục bát”, bởi tôi nghiệm ra rằng ai có căn cước ấy cũng đều ít nhiều lôm lam, nhếch nhác, bùi bụi. Bởi lục bát, truy xuất về nguồn gốc, là con của hoa hoang cỏ dại, là cháu của bùn đất, lam lũ. Có căn cước lục bát, nếu không là nông dân thì cũng gốc nông dân, còn nông dân mất gốc thì không nói làm gì. Sau này, khi anh đã thành danh, thành “đại gia”, lúc nào cũng “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”, vàng nặng tay túi đầy tiền, thì cái lôm lam, bùi bụi vẫn cứ lộ ra, từ dáng đi cho tới giọng nói, điệu cười. Với tôi, Bốn là người nhà quê chứ không chân quê, quê kiểng chứ không quê mùa, nói đúng hơn là “nửa tỉnh nửa quê”.
Những người nhiều chữ, lịch lãm thì họ không chọn lục bát, hoặc chỉ đá qua lục bát cho nó “đậm đà bản sắc dân tộc”. Nguyễn Du là trường hợp đặc biệt bởi ông có mười năm gió bụi, chìm nổi giữa đám trồng dâu, trồng gai nơi thảo dã thuở tao loạn của“Thôn ca sơ học tang ma ngữ/ Dã khốc thời văn chiến phạt thanh”. Tôi tin là ông tâm huyết, tâm đắc với thơ chữ Hán, những “Thanh hiên thi tập”, “Bắc hành tạp lục”, chứ “Đoạn trường tân thanh” ông chỉ coi là “Lời quê chắp nhặt dông dài”. Còn với Đồng Đức Bốn thì đúng là lục bát chọn anh, hành anh và cũng đưa anh đến tột đỉnh, cho đến cái ngày “Chăn trâu đốt lửa xong rồi/ Thì ta trả bút cho trời làm hoa”. Nếu có một câu lục bát có thể lột tả chân dung tinh thần Bốn thì, theo tôi, đó là“Bụi bay trắng dốc Ngọc Hà/ Có ai thương bụi như là tôi không” . Viết về bụi thì nhiều nhưng “thương bụi” thì có lẽ chỉ có mình nhà thơ “họ Đồng, tên Bốn vốn người xứ Đông” này. Con người Bốn cũng như thơ Bốn “phong trần”, chứ không “phong lưu”, chua cay, đắng đót nhiều hơn đằm thắm, ngọt ngào. Có cái do trời bắt, nhưng có cái anh tự chuốc lấy, hoặc thích vơ vào.
Tôi với Bốn khá khác nhau về nhiều phương diện, từ tuổi tác, học vấn, vóc dáng lẫn tính cách. Bốn kềnh càng, học vấn có hạn song lại đầy tự tin, bản năng, thậm chí bốc đồng, liều lĩnh, tôi thì có tí “tem mác” song lại âm tính, sống chừng mực, hơi khép mình. Nhưng chúng tôi lại có cái chung là gốc quê, mà là quê biển “ăn sóng nói gió” ra tỉnh (Bốn ngoại thành đất Cảng Hải Phòng, tôi Hải Hậu, Nam Định), và nhất là cùng trình làng bằng lục bát, men lục bát mà nhô lên, tựa vào lục bát mà làm nên danh phận mình. Chúng tôi có ít nhiều “duyên nợ” với nhau, mà cái gọi là “duyên” thì cũng vầy vậy, còn cái gọi là “nợ” thì cũng tí ti. “Duyên” là tôi có hai lần ngồi chung với Đồng Đức Bốn trên cùng một “mâm thơ”, hay “manh chiếu thơ” thì cũng vậy, do thiên hạ xếp cho.
Lần thứ nhất là trên trang Văn nghệ của Báo “Nông nghiệp Việt Nam”, nhà văn Văn Chinh (Đinh Văn Thị Cầm) giới thiệu “ba nhà thơ trẻ từ quê ra tình” mà anh phóng bút xem là “ba nhà thơ chân quê nhưng đang thuộc hàng hay nhất của cả thơ nông thôn lẫn thơ thành thị”. Ba “nhà” đó là Đồng Đức Bốn, Trần Quang Quý và Phạm Công Trứ. Trong đó, những lời về Bốn thì “Anh viết khá nhiều, giọng thơ phóng túng, tứ thơ luôn có xu thế dứt đứt những ràng buộc tập quán của câu chữ, nên khó chấp nhận. Chẳng hạn, cả bài thơ lại chỉ có một câu: Chiều nay Hồ Tây có giông/ Tôi ngồi trên sóng mà không thấy chìm”. Rồi anh so Bốn với Quý “Cùng xuất phát điểm với Bốn, nhưng Trần Quang Quý ra tỉnh chính ngạch hơn, được các nhà quản lý đương đại trọng thị hơn, và quả thơ Quý có phần lịch sự, thành phố hơn thơ Bốn, nhưng anh lại ở cách xa hơn Bốn cái nơi thơ ở”.
Bởi theo Văn Chinh “Thơ như những bức tượng Phật, ở lăn lóc cùng bình vôi, mảnh chĩnh, ở trong nhân gian: Hôm nay bố nó đi cày/ Muốn sang một quả ban ngày thì sang…”. Còn với tôi thì “Trong ba nhà thơ trẻ từ quê ra tỉnh, Phạm Công Trứ viết sau nhưng để lại ấn tượng đầu tiên. Thơ anh là tiếng sáo trúc riêng ra giữa một đại hợp xướng tập vội để đẩy nhanh nghệ thuật sang hạch toán kinh doanh và rất may lòng thơ của nhân quần lúc nào cũng có thiết bị Stereo: là tiếng rao tôm tươi, cá sống cất lên giữa chợ chiều còn đông nhưng cũng đã nhiều lá bánh ruồi bâu: Về quê ăn tết vừa rồi/ Em tôi áo chẽn, em tôi quần bò”.
Chỉ dành mươi mười lăm dòng phác họa chân dung của ba “nhà” từ quê ra tỉnh vì anh bảo rằng “vốn liếng ngôn ngữ của tôi chỉ có đến thế”. Khen thế rồi Văn Chinh cũng “xin cho phép được chê rằng, nếu không thì được cảnh báo rằng: các anh đang đi dần đến sự hao hao giống nhau, nếu cả ba không có được những cú bứt phá quyết liệt với sự dễ dãi của chính mình: đó là chủ nghĩa thương cảm”. Bởi theo anh “Làng quê còn lắm gian lao, lắm gập gềnh trong xóa đói giảm nghèo. Nhưng người quê không thích nói mãi về những gì biết rồi khổ lắm…Vâng, đây là thơ người quê: “Hôm nay bố nó đi cày/ Muốn sang một quả ban ngày thì sang”. Cùng với lời giới thiệu, anh chọn đăng mỗi người hai bài.
Lần nữa, là ở “Ngày tết đọc năm bài thơ lục bát” (trong sách “Chân dung và đối thoại”) của Trần Đăng Khoa. Trong bài đó, Khoa xếp những năm người khác nhau về tuổi tác, cách biệt nhau về văn nghiệp, văn tài vào cùng một “chiếu”, rồi mượn lục bát để diễu cả lũ cho xôm trò. Tôi với Bốn thì chẳng lấy làm điều. Nhưng ở hàng “đấng bậc” như Nguyễn Đình Thi, hay nổi tiếng như Bằng Việt, Trúc Thông thì chắc họ không khỏi chạnh lòng. Với tôi thì Khoa lỡm ra mặt “… anh cứ đi mãi, đi hút mãi về xứ dân gian. Ở đó anh gặp Nguyễn Bính, và ngay lập tức anh đã bị ông thi sĩ đồng hương này bắt mất hồn!”. Rồi “Đời đã có một Nguyễn Bính rồi. Có nên cần thêm một Nguyễn Bính hạng hai, hạng ba nữa không? Giá không có Nguyễn Bính, có lẽ Phạm Công Trứ đã có một cái chiếu giữa làng văn. Nhưng cái chiếu Trứ đang ngồi vào hiện nay, Nguyễn Bính đã ngả bóng mình xuống đó cách đây nữa thế kỷ. Bởi thế, thơ Trứ có chỗ quả cũng cớm nắng, xanh xao”. Câu này mới chết người “Thiết tưởng, Trứ cũng có thể bắt chước người xưa, ngửa mặt lên trời mà than rằng: Trời đã sinh ra Trứ sao trước đó còn sinh ra Bính?”.
Đồng Đức Bốn cũng chẳng hơn gì, thoạt đầu Khoa cho lên mây xanh “…Anh viết rất nhuần nhuyễn, điêu luyện. Nếu ví thi sĩ như một người thợ kim hoàn mà bậc cao nhất là 7/7, thì Đồng Đức Bốn là ông thợ vàng có tay nghề ở bậc 9/7”. Song “Giời hảo tâm, phóng khoáng trao cho anh đôi tay lão luyện nhà nghề, nhưng lại hại anh, chẳng cho anh một chút nguyên liệu vàng nào… Nhưng nếu cứ bình tĩnh, nhắm mắt lại mà nhìn, và lấy đầu bút khẽ gõ vào toà lâu đài của anh thì thấy chúng không phát ra những âm thanh của kim ngân. Hoá ra đó là thứ vàng mạ. Anh mang đồng, chì, kẽm, và đôi khi, anh vác cả đất sét ra để mạ vàng. Tuy nhiên, mạ được vàng những thứ ấy, đâu phải là dễ”.
Tôi phải trích dẫn dài như vậy vì hai tay bút này chữ nghĩa rất tinh quái, kiểu “xi nhan phải rẽ trái” khen chê chẳng biết thế nào mà lần. Gặp Đồng Đức Bốn, có lần tỏ vẻ ngây ngô tôi vờ hỏi “Này ông Bốn, cái “quả ban ngày” mà Văn Chinh nói ở “Ba nhà thơ trẻ…” đến giờ tôi vẫn chưa hiểu là quả gì?”. Bốn cười ngoác miệng: “Bằng này tuổi đầu mà còn hỏi “quả ban ngày” là quả gì, chưa biết mùi đời à?”. Nói đoạn, Bốn giơ tay trái lên ngang mặt, đầu ngón tay cái và đầu ngón trỏ chụm vào nhau thành một cái vòng, dí sát vào mặt tôi, rồi lấy ngón chỏ bàn tay phải làm động tác dứ dứ: “Quả ban ngày đấy!”. Cố nín cười xem Bốn biểu diễn, tôi lại vờ ướm hỏi: “Thế quả ban ngày nó hơn quả ban đêm à?”. “Ối chao nó bằng vạn quả ban đêm ấy, cứ làm đi rồi sẽ biết”. Tôi cứ cười thầm trong bụng vì đã lỡm được một tay cỡ bậc thầy về chuyện “giai gái”, như Đồng Đức Bốn.
Hôm gặp Trần Đăng Khoa tôi trách: “Ông biếm họa chúng tôi, bây giờ đi đâu, gặp ai người ta cũng “Trời đã sinh ra…”, rất ngượng. Ông độc mồm lắm”. “Con Giời” hì hì mà rằng: “Thì tôi đã so ông với đàn anh Nguyễn Bính rồi còn gì. Viết thế mà gặp tôi, Đồng Đức Bốn còn cám ơn rối rít đấy”. Hồi ấy tôi cứ nghi nghi cái chuyện Khoa bảo Bốn cảm ơn rối rít, đã chắc gì có chuyện đó, Khoa “Cuội” mà lại. Bây giờ ngẫm lại, tôi tin Khoa hồi ấy nói thật bởi bên cạnh một Đồng Đức Bốn ma mãnh, lại có một Bốn ngây thơ đến cả tin của một kẻ vốn hồn nhiên “chăn trâu đốt lửa”. Có điều là hồi ấy Bốn chưa được trao “y bát”, chứ sau này thì…
Tôi quen Đồng Đức Bốn qua Nguyễn Đăng Luận vào khoảng giữa những năm tám mươi thế kỷ trước, khi Bốn thường xuyên lên Hà Nội, mới có vài chùm thơ đăng báo trung ương, mà tôi thì cũng mới trình làng “lời thề cỏ may”. Anh đem photo những bài báo có thơ mình thành nhiều bản cất trong cặp, đi đâu gặp ai cũng mang ra khoe, tặng. Nguyễn Đăng Luận, một người mê thơ vào hàng số 1 ở đất Hà Thành, gốc xứ Đoài, lúc ấy đã đứng tuổi đang làm ở bộ phận điều độ của Tổng cục đường sắt nằm trong ga Hà Nội. Anh sống độc thân tại một căn phòng nhỏ nằm trên đường Lê Duẩn, do cơ quan phân cho. Gặp tôi, anh Luận bảo: “Có tay Đồng Đức Bốn ở Hải Phòng lên, bảo làm đại diện thương mại cho công ty hay doanh nghiệp nào đó của thành phố, thường trọ ở khách sạn Đồng Lợi xế bên kia đường, sang làm quen. Tay này có vẻ bạt mạng nhưng thơ hắn cũng hay. Hình như Bốn có ý thăm dò Câu lạc bộ của chúng mình”. Chả là Nguyễn Đăng Luận cầm đầu Câu lạc bộ “Bồng hồng vàng” đang manh nha ra mắt này. Vẫn theo anh Luận thì “Tay người Hải Phòng này bốc lắm, dọa là sẽ làm lu mờ tất cả các nhà thơ, lều thơ Hà Nội”.
Lúc này Bốn đang được Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Bế Kiến Quốc… cổ vũ, o bế, nên hăng tiết vịt lắm. Đi đâu cũng ăn nói bạt mạng, đọc thơ ông ổng, tặng thơ vung vít, đa phần là lục bát. Với ai quan niệm “hữu xạ tự nhiên hương”, chứ Bốn thì không chờ “tự nhiên hương”, anh mang thơ xông thẳng vào chỗ các cụ Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm để “trân trọng kính tặng, kính biếu” (Đến bây giờ tôi vẫn chưa thật rõ Bốn chủ động quan hệ với các “ông lớn” ấy là vì thơ, hay là vì cái gì ngoài thơ nữa?). Ai đó tâm niệm “đời có cùng thì thơ mới hay”, chứ Bốn thì phải giầu thơ mới hay, mới sang trọng, chứ nghèo thì chỉ có hèn. Muốn thế thì phải “đánh quả” mà nói theo ngôn ngữ bây giờ là “ba trong một”: “quả thơ”, “quả tiền” và… “quả tình”.
Tôi không biết cụ thể công việc của Bốn, chỉ biết rằng anh đi rất nhiều nơi, quan hệ với rất nhiều người. “Hành tung” của Bốn có gì đó hơi bí ẩn, ngờ ngờ. Khi túng kiết thì anh nợ nần như “Chúa Chổm”, có lúc phải chạy nợ, trốn nợ. Khi đã có tiền anh tỏ ra hào phóng (chứ không hào hoa) như một ông hoàng, một đại gia mới nổi. Tôi biết có không ít người đã “ăn lộc” của Bốn bởi chính anh nói ra mồm rằng đã “biếu” nhà báo này bao nhiêu “đô”, đã “tặng” nhà thơ kia những gì. Rồi anh cho in liền hai tập “Con ngựa trắng và rừng quả đắng” ở nhà “Văn học”, rồi “Chăn trâu đốt lửa” ở nhà “Lao động”.
Ấy vậy mà chỉ một thời gian sau gặp lại Nguyễn Đăng Luận, hỏi thăm về Bốn thì anh cau mặt bảo: “Cấm cửa rồi! Anh đuổi thẳng. Không chơi. Lưu manh chứ thi sĩ gì”. Hỏi ra mới biết thì ra Bốn đã làm Nguyễn Đăng Luận cáu, bởi cái sự ăn nói tục tĩu, bậm trợn. Và nhất là Bốn đã “lừa tình” một nhà thơ nữ khá nổi tiếng mà anh rất quý trọng.
Dạo ấy, tôi và Bốn thường xuyên gặp nhau vì cùng là dân “lục bát” mà tôi lại chưa vợ bìu con ríu, đang “cơm bụi nằm bàn” tại Tòa soạn Báo Pháp luật, nằm trong trụ sở Bộ Tư pháp, ở đường Cát Linh. Còn nhớ, thỉnh thoảng thấy tiếng Bốn gọi giật giọng từ ngoài cổng, bất kể là giữa trưa, cuối chiều, hay đầu đêm: “Ông Trứ có đấy không?”. Thấy tôi loẹt quét dép tổ ong ra là anh văng tục ngay, liên hồi “đ... mẹ sao chậm thế”, “đ… mẹ đang “làm quả ban ngày” hay sao mà lâu thế” (!). Đến nỗi có lần tay bảo vệ của cơ quan Bộ, cũng chúa nói tục, phải kêu lên. “Thông cảm cho, anh ấy là nhà thơ nổi tiếng từ đất Cảng lên chơi đấy” - Tôi thanh minh. “Nhà thơ nổi tiếng đ. gì mà tục tĩu ngay trước cổng cơ quan người ta thế!”- Anh ta cự lại, khiến tôi ngượng chín mặt.
Y rằng, cứ thấy Bốn ôm cặp lù lù xuất hiện là miệng sặc hơi men, mắt vằn đỏ. Câu mở đầu bao giờ cũng tự giới thiệu là Bốn từ chỗ nọ chỗ kia đến, đó không là doanh nhân thành đạt, thì cũng là nhà văn, nhà báo tên tuổi, nghe rất nể. Thế rồi là đọc thơ. Bốn có trí nhớ khá tốt, vài ba bài mới là “rửa lưỡi”, “thông mạch” thì phải hàng chục bài, thuần là lục bát. Có bài anh bảo làm ngay trên xích-lô trên đường đi đến, chưa kịp chép ra hay sửa chữa gì cả. Mặc dù theo Bốn là vào chơi để “đọc thơ cho nhau nghe”, song rốt cuộc tôi thành thính giả ngồi nghe Bốn “tra tấn” là chính, mà còn phải gật gù khen nữa. Khen thì được, chứ chê là Bốn vằn mắt. Trút hết bầu tâm sự là anh lịch sự cám ơn, bắt tay chủ nhà lên đường, cũng đột ngột như khi đến, lúc thì gọi xích-lô, lúc thì xe ôm, taxi, thôi thì đủ cả.
Thường thì loanh quanh thế nào Bốn cũng rẽ đến nhà Lê Kim Giao. Lê Kim Giao cũng thuộc hàng “quái nhân”, và cũng có “căn cước lục bát”. Cái câu “thương bụi” mà tôi trích ở phần đầu nằm trong bài “Nhớ Thụy Khuê”:“Nhớ Giao là nhớ Thụy Khuê/ Nhớ con đường bão đi về trong thơ”. Đồng Đức Bốn và Lê Kim Giao là đôi bạn thơ tri kỷ, kẻ hô người ứng một thời. Lê Kim Giao hơn Bốn độ dăm tuổi, người nhỏ thó song rất nhanh nhẹn và có nhiều tài vặt, thông tỏ từ múa võ, đánh cờ, chọi gà, đến vẽ vời, đàn địch, nghĩa là đủ cả cầm-kỳ-thi-họa. Trái hẳn với Lê Kim Giao, Bốn kềnh càng, gia tài ngoài mấy vần lục bát giắt lưng chỉ là những câu chửi thề, chẳng võ vẽ, đàn địch, sách vở gì sất cả. Năng khiếu, cũng như sự được việc của Bốn có lẽ nằm ở cái gọi là “đại diện thương mại”, chuyên móc nối khách hàng và chém tay vào không khí mà thề, theo kiểu thơ Tú Xương “việc bác không xong tôi chết ngay”. Việc xong thì Ok, còn nếu việc không xong bắt vạ Bốn thì có mà “đến mùa quýt”, “mèo thổi tai” nhá!
Nhà Lê Kim Giao nắm sâu tít trong ngõ nhỏ ngoằn ngèo đường Thụy Khuê rẽ vào, tôi cũng đã có dạo lui tới. Anh thường đãi khách món “cây nhà lá vườn” là ngồi ôm ghita bật bông mấy ca khúc tự phổ thơ mình. Hứng lên thì đi mấy đường quyền, hoặc múa côn nhị khúc, cứ là huỳnh huỵch, vù vù, khiến khách vừa thích thú vừa kinh hãi. “Uống rượu với Lê Kim Giao” là bài thơ Đồng Đức Bốn viết tặng bạn, ra đời vào khoảng này. Khi in tuyển tập “Dịu dàng thơ”, có ký tặng tôi, Lê Kim Giao đã lấy bài này thay cho “Lời tựa” phần thơ, còn phần văn thì Nguyễn Huy thiệp viết Lời tựa, trong đó gọi Lê Kim Giao là “tên nghiện văn chương”.
Nữ thi sĩ Olga Berggholz xứ Bạch Dương mê hoặc người đời bằng “Dịu dàng quá dịu dàng không chịu nổi”, còn Lê Kim Giao thì lục bát hóa bằng hai câu cũng hay không kém“Dịu dàng như cánh chim câu/ Bay lên mà chẳng làm đau bầu trời”.
Không biết bữa rượu của hai thi nhân vào chiều cuối năm “ở phố Hàng Đào” đó thế nào, có giống bữa rượu “đôi tri kỷ cuồng” Chí Phèo uống với Tự Lãng, trước khi “đánh quả tình” trời cho trong đêm trăng bên bến sông quê không. Trong đó có chi tiết rất đắt, là rượu say đã biến Tự Lãng - một anh thầy cúng kiêm nghề hoạn lợn, thành một triết nhân luận về “cái mả”, rằng “chết cũng không ai gọi là “cụ lớn mả”, “Chỉ có cái mả, cái mả đất” và rồi “Lão bò như cua và hỏi Chí Phèo rằng: người ta đứng lên bằng cái gì”. Còn ở bài thơ này, những “nào ta uống nhau”, rồi “Rượu chưa rót vẫn sủi tăm/ Rượu chưa uống đã say nằm bên nhau/ Hai người hai trái tim đau” chẳng có gì mới. “Uống rượu với Tản Đà” của Trần Huyền Trân viết trước nửa thế kỷ, bi phẫn và sâu sắc hơn nhiều. Nhưng“Mặc cho bụi mặc cho gai/ Mặc cho dao của những ai giết mình” thì đúng là khẩu khí Đồng Đức Bốn. Sau này tôi nghiệm thấy những gai cỏ độc, rừng quả đắng, những dao, chông, cầu gãy, mây héo, ngựa thọt chân… nhất là mưa, chuông chùa, xuất hiện hơi nhiều trong thơ Bốn. Chẳng biết những thứ ấy có duyên nợ, hay tội tình gì mà ám ảnh anh đến thế?
Trong làng thơ đương đại, Đồng Đức Bốn là một “ca” lạ. Bốn sống khác người, thơ Bốn cũng thế. Người ta tránh bão giông thì Bốn mong dông bão để được “ngồi trên sóng mà không thấy chìm”. Người ta sợ dao búa, thì Bốn thấy “Cánh hoa sắc một lưỡi dao/ Vì yêu tôi cứ cầm vào như không”. Người ta mơ những gái tơ, thì Bốn “Chỉ tơ tưởng gái có chồng”. Người ta ham sống, thì Bốn“Chỉ khao khát chết xem ai thương mình”. Thơ Bốn đầy những hoài nghi, rạn vỡ, bất ổn với những buồn lo, tẽn tò, thập thò “Nghìn năm đi giữa mịt mờ/ Cái gì cũng thấy ngờ ngờ lo lo”; “Tôi tìm cái mất để ngờ/ Cái thương để nhớ cái chờ để tin”; “Nỗi buồn là những vinh quang/ Niềm vui là đám cháy tàn thành tro”; Làm đất đất phải nở hoa/ Làm tôi, buồn cái người ta vẫn buồn;“Buồn thì nín để quên đau/ Sướng thì kêu để người sau chết dần”.
Bốn có cái ngông ngênh, song đó là cái ngông ngênh của “Tôi là vua không có ngai/ Trị một vương quốc chỉ vài mét vuông”. Bốn phiền muộn, bấn bít, nhàu nhĩ, bầm dập, ít nhất cũng là ở trong thơ “Tôi vừa lo được miếng cơm/ Thì mất tí lửa tí rơm gầy lò”; “Bòn mãi được mấy sợi tơ/ Giăng ra bao kẻ đã vơ vào lòng”. Chẳng ai vơ vào lòng họ cả, Bốn cứ tưởng ra vậy, kiểu “tự mình tuyên chiến với mình” cho thơ nó có không khí, có tình huống. Chẳng ai như Bốn bảo “Đời tôi là một nghĩa trang/ Những mô đất cứ xếp hàng thành thơ”. Nó trái hẳn với cái cao ngạo“viết xong trả bút cho trời làm hoa”, có trời nào mà lại xui anh viết những dòng tù mù, tăm tối, đầy âm khí ấy?
Ngông ngênh, khinh bạc, song Bốn trong sâu thẳm vẫn động lòng trắc ẩn, dẫu chỉ thoáng qua:“Ngậm ngùi thịt chó bánh đa/ Chiều nay lại thấy bà già xin ăn; “Chợt đâu có tiếng ca ru/ Nhìn ra lại bác xẩm mù hát rong. Bốn đi với em, em thật, em ảo đủ cả, đôi khi anh thảng thốt nhớ về làng Moi bên bờ sông Cấm, quê anh, nhớ về bố mẹ. Bố thì “Có bao nhiêu những mơ màng/ Bố tôi trút hết vào hàng nan thưa”. Mẹ thì “Còng lưng gánh chịu gió mưa/ Nát chân tìm cái chửa chưa có gì”. Còn Bốn thì“Tôi là thi sĩ đồng quê/ Dám mang lục bát làm mê cung đình”. Cung đình ở đây theo Nguyễn Huy Thiệp ám chỉ thì là những Phạm Tiến Duật, Vũ Quần Phương, Lưu Quang Vũ, Bế Kiến quốc, Nguyễn Duy… những nhà thơ “thời danh”, đang chiếm lĩnh văn đàn lúc ấy.
Gặp lúc ê chề, mệt mỏi trên gió bụi đường đời Bốn thao thiết kêu gọi “Tìm về với mẹ ta thôi/ Kẻo mai chết lại mồ côi dưới mồ”. Tìm về với mẹ tức là tìm về quê, về cội nguồn chất phác, trong trẻo, ân tình. Nhưng cảnh quê, người quê trong thơ Bốn thì “Nhà quê có mấy trai tơ/ Quần bò mũ cối giả vờ sang chơi”; “Lề đường trong những túp lều/ Có cô hàng xén ngồi vêu cả ngày”; “Ngả nghiêng mấy lão thợ cày/ Rượu say vác cả cối chày nện nhau”. Nó đâu có “sáng như trăng đẹp như lụa” như trong thơ Nguyễn Bính. Cho dù không nên đòi hỏi thơ quê của Bốn phải nắn nót tô lại những nét truyền thống xưa. Thời đã khác thì thơ cũng khác. Song, nếu quê chỉ rặt những xô bồ, nhếch nhác, nhiễu nhương thì dù có thống thiết kêu gọi cũng chẳng mấy ai thiết tha trở về. Có thương nhớ đồng quê thì người ta cũng chỉ là “thương nhớ ngày xưa”, “thương nhớ từ xa”!
Lại nhớ sự kiện, nhà thơ Tố Hữu đã “liên tài” viết tặng Đồng Đức Bốn mươi chữ kèm với chữ ký của mình, khi anh tặng thơ ông. (Nghe nói là anh đã phóng thành khổ lớn những dòng “thủ bút” này cùng với bức ảnh chân dung chụp chung với Tố Hữu thả trùm cửa nhà hát Hải Phòng trong “Đêm thơ Đồng Đức Bốn” và ở ngay trước cửa vào nhà mình, khi “nhà có việc”). Ở mấy dòng “bút tích” đó, Tố Hữu xem Đồng Đức Bốn như “một tiếng đàn đồng điệu; ngọt ngào và chua xót”. Đúng, thơ Bốn có ngọt ngào và chua xót (mà chua xót nhiều hơn ngọt ngào), có thể phần nào chia sẻ với tác giả “Một tiếng đờn” có thoáng chút chạnh buồn, mệt mỏi ở tuối xế chiều. Nhưng nếu lại bảo đó là “một tiếng đàn đồng điệu” thì xem ra không phải. “Điệu” của thơ Bốn, về cơ bản, không “đồng” với “điệu” thơ Tố Hữu - lá cờ đầu của thơ ca cách mạng, thậm chí còn trái chiều nữa. Tìm đâu trong thơ Bốn, dù chỉ một dòng, cái dư âm của “Dân có ruộng dập dìu hợp tác/ Lúa mượt đồng ấm áp đồng quê… Màu áo mới nâu non nắng chói/ Mái trường tươi roi rói ngói son”?
Còn nhớ, có lần Đồng Đức Bốn dẫn theo một cô gái không còn trẻ, mặc áo hồng giới thiệu với tôi là vợ từ quê lên Hà Nội chơi, hiện đang ở nhà nghỉ ngay bên kia đường Cát Linh, gần như đối diện với cơ quan tôi. Sau này tôi mới biết đấy là Ng., bồ của Bốn. Còn Ng. có phải là cái người mà Bốn xui “em bỏ chồng về ở với tôi không”, nhà ở Khu Trung Tự, gần cái tháp nước bỏ không, thì tôi không đoan chắc. Việc Bốn thuê phòng “đột xuất” có lẽ chỉ để tranh thủ “làm quả ban ngày”, “sướng bằng vạn quả ban đêm” như Bốn đã hào hứng giảng giải, bày vẽ cho kẻ “chưa biết mùi đời” là tôi ngày nào. Một điều khó giải thích, là một giống đực mạnh mẽ, vào loại “bợm tình”, văn thơ cũng đầy rẫy em út, thế mà tôi chưa thấy Bốn cặp bồ với gái trẻ, gái xinh bao giờ, mà như thơ Bốn “chỉ tơ tưởng gái có chồng”.
Sau này khi Bốn đã nổi tiếng tôi có bảo Nguyễn Đăng Luận: “Sao anh ác cảm với Đồng Đức Bốn thế, chả gì thì Bốn cũng là bạn với Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Huy Thiệp cơ đấy?”. “Chơi với ai thì chơi, chứ xui người ta bỏ chồng về ở với mình đã có vợ, lại còn được Thiệp tán là bài thơ hay, thì chả lưu manh là gì”. Nguyễn Đăng Luận là thế: sống mực thước, yêu gét rất phân minh, hiền nhưng cục tính, đã ác cảm với ai là cạch mặt. Điều thú vị ở đây là, tác giả “Lời thề lá sen”- một “phái sinh” của “Lời thề cỏ may” cũng có đâu yêu vợ, cứ ai nhắc đến vợ quê là anh “ối dào”, rồi gạt phắt đi.
Thấy tôi có vẻ thân thiết với Bốn, Nguyễn Đăng Luận rất ngạc nhiên rằng một người lành như cỏ may mà lại chơi được với tên “lưu manh” ấy. Đúng là quan hệ với Đồng Đức Bốn chẳng dễ dàng gì, cứ tức anh ách, lắm lúc phải nhịn, chín bỏ làm mười. Nhưng chơi với Bốn cũng có cái thú: anh không mắc bệnh lý luận, tranh luận, hay chỉ độc một mình một đường cũng tự “đánh võng” như cánh lắm chữ. Thơ của Bốn không kết tinh ở kiến văn, sự lịch lãm của sách vở đông tây kim cổ, hay dụng công chơi trò chữ nghĩa, mà ở chỗ ứng xử “tay bo” với đời, trong cái “trận bão người” cứ chực nhấn chìm con đò mộng mơ nơi anh. Anh có lộng ngôn song không khoe chữ, có đánh đu song không đánh võng, có ma mãnh song chưa đến mức lưu manh. Vừa đỏ mặt tía tai văng tục vì không vừa ý gì đấy lại có thể cho qua ngay, ứng xử tùy thời, miễn là được việc, theo kiểu “đời nó phải thế, trách gì tôi”.
Nói như thế không phải là tôi biểu dương cái sự ít chữ, hay cái sự văng tục của Bốn, mà chỉ muốn nói rằng Bốn là thế. Có những cái tức với Bốn, tiếc cho Bốn, nhưng cũng có cái phải thông cảm với anh. Bốn đã trải nhiều cay đắng, sóng gió cuộc đời. Rời thanh niên xung phong thời chiến tranh, anh đã phải làm đủ thứ nghề từ thợ gò, sửa chữa ôtô, đóng gạch...rồi đại diện này khác để kiếm sống và nhất là để… nuôi thơ.
Tôi hình dung Bốn làm thơ như những tay hành nghề đánh dậm sừng mỏ ở làng quê xưa. Lánh chỗ chen chúc những mũ cao áo dài, đã thành “điển”, thành “tích”, thành “tinh”. Chỉ nhằm những chỗ bờ bụi gai góc cóc cáy mà dấn thân vào, như Nguyễn Huy Thiệp cứ rình chỗ không ai ngờ mà “giăng lưới bắt chim”. Bốn một thân lụi mụi, bì bũng, sùa sẫm, gặp nhiều vấn rác, phân gio, đỉa rả, rắn rết, thậm chí bị mảnh sành, mảnh chai, cứa cho tóe máu. Nhưng chính vào cái lúc tóe máu, nhăn mặt, điếng người ấy là xuất thần, là thăng hoa. Kiểu săn bắt thơ như vậy, thường chỉ con rô con diếc nhì nhằng, song đôi khi cũng được những con cá “sộp”, cứ tươi roi rói, giãy đành đạch, mà kẻ dụng công nắn nót cả đời có khi chưa một lần chộp được.
Thì đấy “Chốc nữa thế nào cũng giông/ Sang đò tôi đến giữa đồng là mưa”; “Chẳng mong thì bão cũng đi/ Chẳng chờ thì nắng đương thì vẫn sang”; “Xong rồi chẳng biết đi đâu/ Xích lô bà Triệu ra cầu Chương Dương”; “Cầm vàng bán cái vàng đi/ Để mua những cái nhiều khi không vàng; “Mẹ không còn nữa để gầy/ Gió không còn nữa để say tóc buồn”;“Anh tặng em quả chuông chùa/ Khi ba tiếng mở thì mưa bỗng rào”…Bên cạnh những câu “để đời” đó, lại không thiếu những câu “chưa sạch nước cản”, lắm khi huyên thiên “đầu Ngô mình Sở”, thậm chí buồn cười, kiểu như “Ăn mày thì phải lang thang/ Quần manh áo mảnh rộn ràng khắp nơi/ Chân đạp đất đầu đội trời/ Ở đâu không có con người thì đi”; “Tưởng rằng gió đến xôn xao/ Không ngờ hai chú cào cào đánh nhau”...
Đời Bốn “động”, thơ Bốn cũng động, gây ấn tượng nhanh, mạnh mà ít “đọng”. Đọc anh thấy nhiều tâm sự, nhưng hình như “sự” nặng hơn “tâm”. Bốn không phải loại thi sĩ “hướng nội” ngồi một chỗ đào sâu vào lòng mình, chưng cất tâm hồn mình thành thơ, mà phải đi mới có thơ, phải va chạm với đời mới bật ra thơ, tóe ra thơ. Thơ Bốn thời đầu song hành với cái gọi là “đại diện thương mại” của Bốn. Tôi ngờ rằng, những địa danh đầy dẫy trong thơ Bốn như Cát Cụt, Cát dài, Cầu Tre, cầu Đất, Quán Toan… nơi xứ Cảng, hay phố Huế, Bà Triệu, Chương Dương, Thụy Khuê, Ngọc Hà, Quán Thánh, ngõ Cấm Chỉ, ngõ Tạm Thương, Ô chợ Dừa, Nhổn…ở đất Hà Thành, thậm chí phố Nối, Vinh, Huế, Bà Kẹo, Sài Gòn, Đà Lạt… tận đẩu đâu ấy, đã đi vào thơ Bốn khi anh đang trên đường hành nghề, như một kiểu “đường thi” (không phải thơ ở đời Đường, bên nước Tàu).
Đến đây, tôi lại thêm một hình dung, cái tay thi nhân kiêm kẻ “đánh quả” là Bốn đó, cứ lim rim, lơ mơ, lắc lư, lẩm rẩm trên xích lô, hay taxi, rồi bỗng nhiên xe xóc giật nảy mình khiến anh choàng tỉnh, mắt lóe sáng như một con đồng, hay con nghiện lên cơn. Ấy là khi anh cho ra đời những câu lục bát ấn tượng nằm giữa cái khoảng “mơ” và “tỉnh” (nghĩa đen là “ngủ gật”), mà các nhà có lý luận gọi là giữa “ý thức” và “vô thức”. Những “chợ Thương”, “chợ Mơ”, “chợ Buồn”, “chợ Tình” cứ trộn lẫn, đồng hiện với những “chợ Người”, nơi ra giá, mặc cả “chín xu đổi lấy một hào”, “cầm lòng bán cái vàng đi” là như vậy.
Ngẫm ra thì chuyện yêu gét, khen chê trong giới viết lách cũng khó nói, đúng là như câu của người xưa “cao nhân tất hữu cao nhân trị”. Bốn được Nguyễn Huy Thiệp, một tài năng truyện ngắn đến nay hầu như là “vô đối” cho lên mây xanh, xem như “vị cứu tinh cho thơ lục bát”, thì dưới mắt Nguyễn Đăng Luận - một người làm thơ không mấy tên tuổi, thì lại như một tên “lưu manh”. Còn Trần Đăng Khoa lại xem thơ họ Đồng “Chỉ óng ánh trang kim, nhưng nhẹ tếch chẳng có gì. Gạt cái vỏ mạ vàng ra, bên trong chỉ luễnh loãng một chút sương khói”. Tiến sĩ Đoàn Hương xem Đồng Đức Bốn là “người mê sảng, lên đồng, bị thơ nhập, trời hành và ban cho ân huệ. Thơ với Đồng Đức Bốn chính là nước mắt, là muối, là máu của cuộc đời” thì dưới mắt nhà phê bình Nguyễn Hòa “Phải chăng sự dông dài của những câu thơ “rỗng ruột” là một trong những đặc điểm làm nên phong cách thơ Đồng Đức Bốn, và nếu trên đời có cái gọi là “y bát thơ lục bát” thì dường như nó đã bị trao nhầm chỗ”.
Cũng cái người “thị tài” là Nguyễn Huy Thiệp “mục hạ vô nhân”, ấy vậy mà dưới mắt Đồng Đức Bốn thì tài năng cũng vầy vậy thôi. Không phải một, mà vài lần, Bốn khoe với tôi rằng Nguyễn Huy Thiệp viết khó khăn lắm. Trước khi ngồi vào bàn viết thường bày hàng ôm sách trước mặt, cả sách ta lẫn sách Tàu, để tham khảo hay lấy cảm hứng gì đấy. Hình như còn thắp hương lầm rầm cầu khấn trước tượng Phật trong vườn nhà nữa. Còn Bốn chẳng sách vở gì sất, chỉ “tay bo”, lúc hứng lên cứ tù tì cho ra hết bài này đến bài khác, thuần sáu tám, khiến Thiệp rất phục, thậm chí… chết khiếp!
Tôi phần nào tin lời Bốn, vì anh đã từng có thời gian “lưu trú” trong nhà Thiệp nên khá tường tận công việc viết lách của tác giả “Tướng về hưu”. Nhưng có lẽ do cái viết nhanh, viết lấy được, như lên đồng ấy, được Nguyễn Huy Thiệp nức nở khen là loại lục bát “đốn ngộ” (tức là viết bằng bản năng chứ không viết bằng trí năng, như phần lớn các nhà lục bát khác) mà thơ anh chỉ hay ở đơn vị câu, còn toàn bài thì thường là xộc xệch. Nếu nhìn kỹ thì ngay với hai bài được cho là tuyệt bút, là toàn bích của Bốn là “Chăn trâu đốt lửa” và “Vào chùa” cũng có điều chưa thật ổn, dù đó chỉ là tiểu tiết, có thể cho qua.
Tôi có lần bảo với Bốn rằng, cái tứ “đốt lửa” thì dân gian đã từng nói rồi, mà xem ra ý tưởng còn kinh hơn“Ngồi buồn đốt một đống rơm… Khói lên đến tận Thiên tào/ Ngọc Hoàng phán hỏi đứa nào đốt rơm”. “Chăn trâu đốt lửa” chỉ thành độc bản và bản quyền mang tên Đồng Đức Bốn, là do ông có giây phút thả hồn về lại cánh đồng thuở “chăn trâu cắt cỏ”, trải một ít rơm rạ, vùi một “củ khoai”, châm một mồi lửa, và nhất là “mải mê đuổi một con diều”… số phận. Như thế cũng là bắt được của giời rồi, mà của giời thì đâu có nhiều. Ông trời cũng ky bo lắm. Người kỹ tính có thể bảo rằng, đã rạ rơm ít, gió đông nhiều thì củ khoai nướng phải sống sít chứ sao có thể cháy thành tro? Hay nhà sư chứ có phải thầy mo, thầy cúng đâu mà cho khách vãng lai bùa ngải? Hoặc nữa, chỉ có bốn câu thơ ở bài “Vào chùa” mà chữ “đi” lặp lại đến hai lần, là điệp chữ điệp vần, thì không thể gọi là toàn bích.
Lần ấy vào đầu những năm 90, Bốn xuất hiện ở Toàn soạn báo tôi, nhưng không ồn ào, văng tục như mọi khi, mắt thì đỏ hoe, râu ria lởm chởm, chứ không nhẵn nhụi như mọi khi. Thì ra anh đang có chuyện gia đình, mà lại là chuyện buồn. Con trai anh đang ở độ tuổi thanh niên chẳng hiểu vì sao mà lại kéo bè kéo cánh đi làm cái việc “xin tiền” người ta. Run rủi thế nào, lần này bị người ta chống trả quyết liệt, quá đà dẫn đến chết người, trong đó có con trai Bốn. Quá đau xót, biết tôi từng dậy luật, làm Báo Pháp luật, anh muốn tôi lên tiếng “để cháu nó khỏi… chết oan”. Nghe anh trình bày tôi rất thương cảm, nhưng nghĩ đây là một “ca” phức tạp, có thể là “lỗi hỗn hợp”, báo chí khó vào cuộc ngay. Tôi chỉ biết an ủi động viên anh, rằng cho dù có là “phòng vệ chính đáng”, thì những người đánh chết con anh cũng khống thể trốn tránh trách nhiệm, luật đã quy định trường hợp “vượt quá phòng vệ chính đáng”rồi. Đây là vụ án hình sự lớn, thế nào cũng có điều tra, xét xử. Khi đó nếu giúp gì được anh thì báo chí chúng tôi sẽ lên tiếng. Mà anh nên thuê luật sư, nếu cần tôi sẽ giới thiệu cho.
Nhưng rồi sau đó vụ án giải quyết thế nào không rõ, bởi không thấy anh chắp nối lại chuyện này nữa. Còn nhớ hôm ấy, chỉ mấy phút sau sụt sịt là Bốn lại ông ổng đọc thơ, cứ như là chưa từng gia đình vừa có tang. Nhìn Bốn mắt lim dim, tay vung vẩy, thả hồn vào lục bát, tôi thầm nghĩ: thế mới là Đồng Đức Bốn! Sau này đọc thơ Bốn thấy “Bây giờ vợ theo người ta/ Con giờ ở bãi tha ma một mình”. Vợ theo người ta là anh “ăn gian”, “tố điêu lên”, song con nằm bãi tha ma thì đúng thế. Còn cái chuyện bảo rằng Bốn cứ in một tập thơ là gia đình lại có tang, như là định mệnh, thì có lẽ là do trùng hợp chứ xem ra cũng không mấy có căn cứ.
Cái gọi là “nợ” tí ti nói phần đầu bài, chỉ là chuyện vặt song nó lại cũng rất Đồng Đức Bốn. Lần ấy, biết tôi “cơm bụi nằm bàn” thuộc loại nghèo kiết xác nên Bốn không hỏi mượn nhiều, mà chỉ là “giật tạm” một ít vì có việc cần, rất cần. Tôi không nhớ rõ đưa cho Bốn là bao nhiêu tiền, song chắc không lớn lắm. Cầm tiền rồi, Bốn hể hả bảo tôi lấy xe máy lai Bốn đi. Đi đâu? Cứ đi sẽ khắc rõ, Bốn bảo. Giữ đường Bốn ra hiệu tôi dừng xe trước một quán ăn để mua một cái giò lụa. Mua giò làm gì? Thì có việc - Bốn chặc lưỡi. Loanh quanh theo tay Bốn chỉ, xe dừng ở trước khu tập thể báo Văn Nghệ nằm ở bên hồ Ngọc Khánh, cạnh đường La Thành.
Tôi theo Bốn leo lên căn hộ mới được phân của vợ chồng Bế Kiến Quốc - Đỗ Bạch Mai. Nhà thơ Bế Kiến Quốc lúc đó đang phụ trách trang thơ của Báo Văn Nghệ, có quyền chọn và đăng thơ trên báo. Vừa qua cửa Bốn đã giơ cái giò lên, giọng trịnh trọng: “Chào hai bác nhà thơ! Bốn đến chơi “chả có cái gì, chỉ có cái giò”, hai bác thông cảm”. Chuyện rất gấp không thể trì hoãn, đi rồi sẽ biết, thì ra là vậy. Rõ ràng là tiền của Phạm Công Trứ, song chủ nhà lại cảm ơn Đồng Đức Bốn! Nếu là người tế nhị thì có thể mượn tiền nhưng sẽ không rủ người cho mượn tiền đi cùng, khi làm cái việc biếu chác này, nó “trơ” lắm, “thớt” lắm. Nhưng Bốn thì thế. Trên đường về tôi có cằn nhằn thì Bốn chỉ chặc lưỡi, mặt cứ tỉnh bơ “như chưa hề có chuyện tiền nong, biếu chác”. Dạo ấy, chuyện “nợ nần” của Bốn thì cũng nổi tiếng không kém gì thơ Bốn.
Chuyện thơ phú cũng gián đoạn khi tôi có vài ba năm sang Tây nghiên cứu luật học. Sau đó, cơ quan báo tôi chuyển địa điểm khỏi Cát Linh, thì chuyện gặp nhau cũng thưa dần. Biết là tiếng tăm Bốn nổi như cồn, nhất là sau khi Nguyễn Huy Thiệp dành cho “những lời có cánh”. Nổi tiếng thế song anh lại trầy trợt vào Hội nhà văn. Tôi đã khó rồi, Bốn còn khó hơn. Mấy lần kiểm phiếu bầu đều không quá bán. Có dịp gặp Bốn tôi an ủi: “Thơ ông thì không ai phủ nhận được rồi, trục trặc chắc là do mấy cái chuyện scandal ông gây ra chứ gì. Nghe nói có lần ông đã đến cổng Hội nhà văn làm ầm lên, còn dọa viết đơn kiện BCH Hội nữa cơ mà”. Bốn vằn mắt, giọng đầy cay cú: “Hội đồng chuột, có mắt mà như mù. Thơ Bốn nổi tiếng toàn thế giới. Cỡ No-ben. Thử hỏi thời nay tìm đâu ra “chăn trâu đốt lửa”, “ăn mày vào chùa”... Bốn túng thì mượn tiền chứ đã ăn quỵt ai chưa?”. Biết chạm đến nỗi đau mấy lần trượt Hội của Bốn, tôi đành đánh bài lảng “cho nó lành”. Nói Bốn “đau” vì anh đi đâu cũng oang oang tự giới thiệu “Tôi Đồng Đức Bốn nhà thơ” mà nếu chưa là hội viên, tức là chưa “chính danh”, thì có khác nào bảo Bốn ăn gian, tự cơi nới mình.
Đồng Đức Bốn bị bạo bệnh thì làng văn ai cũng biết, miệng Bốn, thơ Bốn đã sớm lên tiếng“Sừng tê giác cổ linh chi/ Thuốc men nào có thiếu gì nữa đâu”. Cánh nhà báo thích tác giả “chăn trâu đốt lửa” nên theo dõi sát sạt mọi “nhất cử nhất động” của Bốn. Thời anh chữa bệnh, trú ở nhà nghỉ (hay khách sạn?) Hoa Hồng, đường Đào Duy Anh, biết tin tôi có đến thăm. Tối ấy có mặt cả Nguyễn Huy Thiệp. Thiệp đang lúi húi, hý hoáy gì đó, rồi anh thở dài bảo “không thành”. Thì ra anh ký họa bạn. Tiện dịp, tôi có tặng nhà văn mà mình rất mến mộ tập thơ mới in mang theo. Anh cảm ơn, xem cái bìa, lật qua mấy trang, cho vào cặp, song không bắt chuyện hay biểu lộ tình cảm gì.
Bốn người khô gầy, dáng mệt mỏi, giọng khàn khàn thì đang ăn bún chanh mắm. Vừa ăn Bốn vừa giải thích: “Rất lạ, cái bệnh này nó lại thích mùi mắm tôm, ông ạ”. Người nhà Bốn có đến dăm người, phần nhiều là đàn bà con gái, vây quanh, động viên anh ăn uống, khiến tôi rất cảm động. Lúc này tôi không thấy bóng dáng “đại gia” quen thói “bốc rời” nơi Bốn, mà chỉ thấy một ông già lành hiền, nhẫn nại, ốm yếu như bao người bố, người ông khác. Thì ngoài “cái lộc thơ” trời cho, như Bốn tự nhận, anh còn có cái lộc con, lộc bạn, lộc tiền đấy chứ.
Người ta cứ có ấn tượng con cái nhà văn nhà thơ thường chẳng ra sao. Họ dẫn ra những nhà văn này, nhà thơ nọ con láo vợ hư, nghe cứ nẫu cả ruột. Nhưng với Đồng Đức Bốn, Nguyễn Huy Thiệp, rồi Lê Kim Giao… thì tôi thấy vợ con họ lại rất tử tế, yêu quý bố, thậm chí kính trọng, tự hào nữa, mặc dù nhiều lúc những ông bố này cũng rất chi là… bố láo! Đời cũng chẳng biết đâu mà lần. Để làm dịu không khí bệnh tật, lại có mặt Nguyễn Huy Thiệp tôi bảo: “Ngày nào ông với chúng tôi khá thân thiết, kể từ khi ông thành “vị cứu tinh của thơ lục bát”, nhận “y bát” người ta trao, thì ông coi chúng tôi như cỏ rác, có khác nào AQ coi khinh cu D trong văn Lỗ Tấn”. Chẳng biết Đồng Đức Bốn đã đọc “AQ chính truyện” chưa, nếu như mọi khi thì anh đã vằn mắt, song lần này chỉ thấy “hừ hừ” trong cuống họng ra ý “thôi đi cho”.
Ấy cũng là lần cuối cùng tôi gặp Đồng Đức Bốn.
Đúng ra, tôi còn có thêm một lần nữa gặp Bốn là tại sân Văn Miếu vào ngày thơ Việt Nam, tháng giêng Bính Tuất, 2006. Đồng Đức Bốn ngự trên một “cây thơ” khá to, đầu trọc lốc, áo vàng, mắt nhìn đầy xa vắng. Bên cạnh là chồng tuyển thơ “Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc” vừa in ra còn thơm mùi mực, rất hoành tráng, bìa cứng, giấy đẹp, vừa trưng bày, vừa bán. Chẳng phải tôi mà bất cứ người nào đi qua cây thơ này cũng phải sững lại trước chân dung tác giả “chăn trâu đốt lửa”, sờ vào tuyển tập thơ với những rưng rưng xa xót. Vắng ông, làng lục bát vốn đang thất thế trước những “tân hiện đại”, “hậu hiện đại” sẽ càng thêm đìu hiu, quạnh quẽ. Sau ông chẳng biết có còn ai “chăn trâu đốt lửa” khói um cả cánh đồng lục bát, khiến nhiều kẻ cay mắt, hắt hơi sổ mũi nữa không? Ông, cái người kiêu căng, lộng ngôn, khẩu khí vào hàng bậc nhất làng thơ Việt, với những câu cuồng thi “Nay ta bảo cho các người/ Ta đến chỉ ở với người không lâu”, rồi “Suốt đời sống trên ngọn gai/ Chỉ khao khát chết xem ai thương mình?”; hay “Nay tôi về với trăng sao/ Xin trời một trận mưa rào đón tôi” là đây ư? Là như vậy ư?
*
Nếu có ai đó đọc bài này, đến đây chắc sẽ chau mày, nhăn mặt mà bảo rằng: cứ cà kê dê ngỗng nhì nhằng cái điều “biết rồi, khổ lắm…” mãi, sốt cả ruột. Ý ông thế nào khi Nguyễn Huy Thiệp gọi Đồng Đức Bốn là “vị cứu tinh của thơ lục bát” là người được Nguyễn Bính trao “y bát”? Phát biểu ư? Thôi thì xin miễn thứ cho! Bạn thơ, mà lại cùng lục bát với nhau khó nói lắm. Thật ra thì báo chí, các nhà nghiên cứu phê bình, cả chuyên nghiệp lẫn nghiệp dư, đã tốn nhiều giấy mực rồi. Không thể không đồng ý với câu của Nguyễn Huy Thiệp ở cuối Lời tựa tập “Chăn trâu đốt lửa” rằng: “Thơ đồng Đức Bốn cũng hay”. Còn hay như thế nào thì đành phải nhờ chàng Kim trong Truyện Kiều đỡ cho “Rằng hay thì thực là hay/ Nghe ra…”.
Ở thế giới bên kia, các cụ Nguyễn Du, Nguyễn Bính…, những “truyền nhân lục bát” tài danh, đáng kính có tổ chức “hội thảo” nhất trí trao “y bát” cho đệ tử họ Đồng hay không, và nếu có thì nghi thức diễn ra như thế nào, có sự chứng kiến của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Đăng Luận không, thì người trần mắt thịt như người viết bài này “bất khả tri” nên cũng “bất khả tư nghị”. Còn cao vọng“Viết câu thơ để sống nghìn năm sau” của nhà thơ họ Đồng có ứng nghiệm không thì có mà… giời biết! Đại thi hào Nguyễn Du cũng chỉ dám nghĩ “ba trăm năm sau” mà còn hoài nghi “thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” đó thôi!
Khu Ngoại giao đoàn, cuối Hạ đầu Thu, 2021
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét