CHÂN MỘC TÌNH CẢM CỦA MỘT NGƯỜI LÍNH
Tập thơ NGÀY TRỞ VỀ của Nguyễn Đăng Soạn
Vũ Nho
Chàng trai Nguyễn Đăng Soạn nhập ngũ những ngày kháng chiến chống Mỹ đầy gian khổ, khó khăn, ác liệt. Hoàn thành nhiệm vụ, anh về hưu với quân hàm Đại tá. Đồng thời có 3 tấm bằng kĩ sư là kĩ sư điện bằng chính quy, kĩ sư chế tạo máy, kĩ sư máy tính bằng tại chức. Như thế thật đáng tự hào và khâm phục. Dù yêu thơ ca từ nhỏ, nhưng gia đình thiếu sách vở, không có ai giúp đỡ, lại cuốn vào hoàn cảnh chiến tranh, nên khi về hưu, người lính yêu thơ ấy mới nghĩ đến chuyện thể hiện những tình cảm, những suy tư, những nỗi niềm của mình. Thời gian ít ỏi, lại chưa từng qua một trường lớp nào về văn chương (Dù gần đây Trung tâm bồi dưỡng viết văn của Hội nhà văn Việt Nam có mở khá nhiều lớp), nhưng tác giả đã mầy mò tự đọc, tự học và đã in được tập thơ “Một thời đã qua” gồm 101 bài. Đó chẳng phải là một dấu mốc đáng nhớ của cuộc đời người lính hay sao. Và bây giờ, sau thành công bước đầu, Nguyễn Đăng Soạn lại tập hợp 107 bài thơ để in tập thơ thứ hai với nhan đề “Ngày trở về”.
Ấn tượng về quê hương người lính là một ấn tượng mạnh mẽ:
Quê tôi úng ngập bốn mùa
Đi đâu cũng phải qua đò lội sông
Mùa mưa nước ngập trắng đồng
Lỗ chân sau trước như dòng chân voi
(Quê tôi)
Là người vùng đồng chiêm trũng, tôi đã từng chứng kiến cảnh ngập lụt nên có cảm tình ngay với những câu thơ chân mộc này.
Vẫn như nội dung của tập thơ trước với các chủ đề quen thuộc, trong tập thơ này, tác giả thể hiện tình cảm chân thành, mộc mạc của mình với quê hương, đồng đội, bạn bè quân ngũ, bạn bè nơi quê kiểng, những băn khoăn, bức xúc của mình trước thời cuộc.
Người lính rời quân ngũ, quay lại ruộng vườn lại làm nhiệm vụ của người nông dân, với cách nói dân dã “Về quê đi cày”. Đây là hoàn cảnh của một đồng đội cũ từng sống chết có nhau nơi chiến trường:
Mình anh vật lộn từng giờ
Ruộng, vườn, cơm, thuốc, bơ phờ gầy đen
Tác giả ngậm ngùi khi suy ngẫm về thời chiến trận oai hùng với thời bình ở hậu phương gian khổ, buồn thương của bạn:
Huân chương lồi trước lõm sau
Hào quang lẫn với nỗi đau để đời
(Đồng đội cũ)
Ngày trở về , người lính lại vào chiến trường mới “ không tiếng súng, không khói bom” nhưng đâu kém cam go?
Đó là một người bạn “đi nạng huân chương mang về” gặp lại người yêu cũ đã thành người khác :
Gặp em lối rẽ trường quê
Dắt hai con nhỏ nẻo về khác thôn
(Những cơn bão lòng)
Hay một đồng đội khác thì vợ vẫn là vợ nhưng trong lời đàm tiếu dân làng:
Thì thầm xóm dưới làng trên
Rằng “con mẹ ấy liên thiên nhiều lần”
Đứa đầu nghe của làng Vân
Đứa sau lên huyện hay gần bí thư
(Chuyện buồn của bạn)
Một đồng đội bị chất độc da cam, không có khả năng làm chồng, làm cha. Khiến cho người vợ chan hòa nước mắt:
Em xin chịu tôi từ đây
Yêu anh đền đáp hẹn ngày kiếp sau
(Em xin chịu tội với trời)
Tuy vậy không phải ngày trở về của người lính toàn là bức tranh màu xám, âm ỉ nỗi đau chiến tranh. Còn có những mối tình đẹp đẽ, thủy chung:
Đã qua năm chục mùa thu
Cô giáo vợ lính sớm trưa vì chồng
( Người lính và cô giáo làng)
Đó là những cô thôn nữ, những người vợ lính “Chiến tranh gian khổ bến quê vẫn chờ” (Bến quê vẫn chờ) :
Ở ăn chân thật tình người
Đã thương thương cả một đời không thay
(Người quê)
Viết về quê hương, về kỉ niệm thời học sinh Nguyễn Đặng Soạn có những câu thơ kỉ niệm tươi tắn:
Cái hôm anh đến nhà em
Nhờ giảng bài toán mời kem uống trà
Bàn rộng chẳng chịu ngồi xa
Cứ sát sàn sạt, đẩy ra lại cười
(Cái sai tại mình)
Thật sinh động cái hình ảnh sân hợp tác xã một thời làm ăn tập thể:
Người kéo người đẩy trục lăn
Hạt thóc rơi xuống. Má lằn mồ hôi
(Sớm mau về nhà)
Hình ảnh “má lằn mồ hôi” là hình ảnh lao động tuyệt đẹp mà người viết bắt được làm sáng lên câu thơ.
Là người lính sống chân tình, trung thực, tác giả dành không ít câu thơ để phê phán những “lãnh đạo thoái hóa, biến chất”:
Bí thư, Chủ tịch hầu tòa
Cánh hẩu một lũ trốn xa khỏi làng
(Chuyện đời chuyện tình người lính anh hùng)
Họ là công bộc, nhưng không làm tròn phận sự như bác Hồ đã dạy, mà:
Một lũ công bộc làm càn
Dối trên lừa dưới nói toàn vu vơ
(Vì dân)
Tác giả phê phán việc gian lận thi cử, chạy điểm, chạy trường:
Giờ nay cũng chọn nhân tài
Quan tham hàng tỉnh cắm gài cháu con
Học dốt bằng vẫn dấu son
Điểm không thành chín chẳng còn ai hơn
(Chạy điểm vào trường)
Không ngần ngại, tác giả đả kích thẳng thừng “quan lại” thời nay, bất tài, chỉ khoe mẽ “dọa” dân:
Quan nay đủ loại văn bằng
Giáo sư học vị lằng nhằng dạy ai
Sách ra có kẻ viết bài
Làm con ngáo ộp khoe tài trong dân
( Khác nhau)
Bên cạnh đó, người viết lo lắng đến vấn đề môi trường, tiếc nuối cảnh vó bè của vùng quê thanh bình :
Ngày nay hết nghiệp vó bè
Không còn nâng hạ đêm hè rung rinh
(Vó bè)
Lo lắng vì vấn nạn xấu giờ đã len lỏi vào tận ngõ quê:
Làng nay đã đổi theo thời
Ka ra ô kê quán đứng ngồi bá vai
Thuốc lắc lén bán đủ xài
( Vẫn đây quê mình)
Phê phán cảnh lên chùa không mang tâm lành, tính thiện, mà vụ lợi:
Lên chùa mua chuộc thánh thần
Bán cho điều tốt, bỏ phần rủi ro
Kì kèo xin được “giàu to”
( Chùa giải hạn)
Rất đúng với tinh thần chiến đấu không khoan nhượng với các ác, cái xấu của người chiến sĩ bộ đội cụ Hồ.
Tác giả còn dành một số bài thơ ca ngợi những phong cảnh đẹp của quê mình, của đất nước như “Thăm lại bến xưa”, “Thăm chùa Ngọa Vân”, “ Đền thờ Ngọc Hoa”, “Về thăm Hội An”, “Thánh địa Mĩ Sơn”, “Tháp Mĩ Sơn”,… Một số bài thể hiện tình cảm bạn bè, xóm làng, gia đình. Tác giả còn nói về chợ tình, về đại dịch Covid, về kẻ xấu bất nhân “ Đâm tàu đánh cá của dân ta chìm”. Điều đó chứng tỏ sức viết và đề tài đa dạng của tác giả.
Như người viết đã bộc bạch, thơ của người lính không qua trường lớp nào, chỉ là tự học, tự làm nên không tránh khỏi những khiếm khuyết. Tôi không bàn về những khiếm khuyết ở đây. Chỉ thấy vui là nếu không khó tính, nếu mở lòng chân thật “lấy hồn ta để hiểu hồn người”, chắc bạn đọc sẽ tìm thấy những đồng tình, đổng cảm với tác giả.
Hà Nội, 21 tháng 6 năm 2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét