Chủ Nhật, 5 tháng 5, 2024

NGƯỜI TRONG KÝ ỨC

 NGƯỜI TRONG KÝ ỨC

                  BÙI QUANG THAnh

bui_quang_thanh

Nhà thơ Bùi Quang Thanh


Nhận lời mời của Thượng tá Trịnh Nông - Viện
trưởng Viện Kiểm sát quân sự Quân khu 5 và
Thượng tá Bình (Phó Viện trưởng), tôi đến một quán nhỏ
trên đường Hàm Nghi, Đà Nẵng. Đón tôi ở cầu thang
bằng gỗ, Thượng tá Bình hỏi nhỏ: “Anh có biết cu Theo
không?”. “Theo nào?”. Tôi ngơ ngác hỏi lại. “Cu Theo của
ông Tố Hữu ấy”. “A! Có phải Nguyễn Văn Hòa không?”.
“Đúng là người ấy. Anh Hòa đang có mặt ở đây”. Tôi
mừng quá. Con người đã đi vào sử sách, thi ca lúc còn rất
bé bởi chiến công oanh liệt của mình và cũng nhờ những
vần thơ giản dị đến thần tình của nhà thơ xứ Huế mà ai
ai cũng nhớ đến anh. Tôi chưa một lần được gặp, chỉ nhớ
anh trong thơ thôi, còn người thật, tôi cứ nghĩ anh chỉ là
huyền thoại bởi lâu lắm rồi chẳng nghe ai nhắc đến, hóa ra
“Cu Theo” trong thơ Tố Hữu ngày nào đang sống ở đây.


Cu Theo chẳng hề xúc động khi có một người lạ hoắc
biết rất rõ về ngày xưa của mình. Anh lặng lẽ gật đầu
chào tôi sau lời giới thiệu của Trịnh Nông. Câu chuyện
quanh bàn rượu hôm đó xoay quanh bài thơ của Tố Hữu
rồi lan sang những nhân vật dũng sĩ tí hon một thời với
Cu Theo: những Nguyễn Văn Tư, Trần Phước Tới... Anh

Tư bây giờ làm giám đốc một công ty tư nhân, anh Tới
thì chẳng phải ai xa lạ, đó là Đại tá - Viện trưởng Viện
Kiểm sát quân sự Trung ương bây giờ. Trước khi ra Hà
Nội để thay Thiếu tướng Không quân Nguyễn Đăng Kính
về nghỉ hưu, anh Tới là Viện trưởng Viện Kiểm sát quân
sự Quân khu 5. Còn Cu Theo của chúng ta ngày ấy bây
giờ là Phó Ban Tổ chức Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế. Tôi đang
say với quá khứ của những anh hùng tí hon ngày nào
thì một vị khách nữa xuất hiện. Đó là một người phụ nữ
dáng nhỏ nhắn, tươi vui, có khuôn mặt thật dễ mến. Chị
tên là Nhung, Chánh Văn phòng Ban Tổ chức Thành ủy
Đà Nẵng. Chị Nhung là người quen cũ của Nguyễn Văn
Hòa. Một thời họ là thiếu niên miền Nam được ra Bắc
học tập để đào tạo nguồn cho cách mạng. Sự chăm sóc
từ rất sớm của Đảng đã giúp họ trưởng thành và họ thật
xứng đáng với lòng tin cậy đó. Khi nghe Trịnh Nông giới
thiệu tôi là người Hà Tĩnh, chị Nhung chợt hỏi: “Anh có
thể giúp em một việc không?”. “Chị cứ nói. Nếu có thể,
tôi sẽ nhiệt tình”. Trần Phước Tới nói với Nhưng: “Anh
Thanh là nhà báo của ngành Kiểm sát, anh lớn tuổi hơn
tụi mình” Nhung khẽ “Dạ” rồi kể: Năm 1968, Nhung vừa
tròn 10 tuổi. Điện Bàn quê Nhung vốn là mảnh đất cách
mạng, nơi bị quân Mỹ và chư hầu phong tỏa dày đặc, càn
quét triền miên. Để đảm bảo an toàn cho lớp trẻ đồng thời
đào tạo thế hệ ngày mai, Nhung và nhiều thiếu niên, nhi
đồng trong vùng được Đảng bố trí ra Bắc. Đường đi vô
vàn gian truân, từ Điện Bàn lên căn cứ của cơ quan Tỉnh
ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, theo tuyến giao liên bí mật,
phải băng rừng vượt thác. Những người trong đoàn đi A
hầu hết là thương binh, bệnh binh nặng và trẻ con. Bàn
chân đứa bé lên mười phải lê theo đoàn chiến thương thật
là vất vả. Sau một thời gian bám đuôi, Nhung bị sốt rét

phải nằm lại các trạm giao liên và bãi khách, rồi Nhung
được ghép vào một đoàn chiến thương khác để tiếp tục
cuộc hành trình. Trong đoàn có một chú bộ đội quê Hà
Tĩnh là bệnh binh bị bệnh khá hiểm nghèo phải tự mình
lặn lội ra Bắc theo đoàn. Thương bé Nhung nhỏ yếu, mặc
dù sức vóc chẳng còn là bao, chú bộ đội người Hà Tĩnh ấy
vẫn cõng, vẫn dìu bé Nhung ròng rã 3 tháng trời đến tận
đất Bắc. Có những quãng đường xa, chú mang cả gùi của
Nhung, cả ba lô của chú, hai bên hông đeo hai bi đông
nước lặc lè bước thấp bước cao. Đoàn đi ai cũng hoặc bị
thương hoặc bị bệnh, hoặc phải khiêng cáng, gùi đồ đạc
nên ít người có điều kiện dìu Nhung giúp chú ấy. Ra đến
đất Bắc (có lẽ là Quảng Bình), đoàn chiến thương đã có
ô tô chở nên chú cháu xa nhau lúc nào không biết nữa.
Từ ấy đến nay, trong tâm khảm Nhung không sao nguôi
ngoai hình ảnh chú ấy. Nhung tự trách mình ngơ dại để
đến nỗi không nhớ rõ họ tên quê quán của chú. Hình như
mang máng chú ấy tên là Hiếu, vóc người thấp đậm, nước
da trắng xanh như tàu lá vì sốt rét, từng chiến đấu ở mặt
trận Quảng Đà.
Ngồi giữa thanh thiên bạch nhật, giữa những người
lính từng dạn dày trận mạc mà mắt Nhung rưng rưng.
Tôi hứa với Nhung tôi sẽ có cách tìm bằng được người
bộ đội quê Hà Tĩnh ấy, miễn là anh vẫn còn sống đến
bây giờ. Mà hình như tôi ngờ ngợ quen quen ông chú bộ
đội của Nhung. Những người lính một thời như vậy ở Hà
Tĩnh hoặc người Hà Tĩnh ở khắp nơi tôi đã gặp cả trăm,
cả ngàn. Chỉ tiếc không biết rõ ai là chú Hiếu của cô ngày
xưa. Tôi hứa với Nhung mà nghĩ mãi không có cách gì
có thể lặn lội đi tìm người trong kí ức tuổi thơ cho cô ấy.
Nhung trầm ngâm: “Chắc là chú ấy sẽ nhớ một đứa bé
gái mà chú đã cưu mang bằng chút sức lực ít ỏi của mình,

nếu như có ai gợi lên hình ảnh ngày ấy. Em cứ ước ao có
một phép thần kỳ nào đó mà chú cháu em được gặp nhau
hoặc biết tin về nhau. Nhất định em sẽ mời chú ấy vào Đà
Nẵng chơi, anh ạ”. Nhung bảo rằng, cũng từ dạo ấy, Hà
Tĩnh trở nên thân thương với Nhung, gặp ai ngoài đó vào
Nhung cũng kể lại kỷ niệm ấy để mong tin của chú.
Và, để thực hiện lời hứa với Nhung, tôi gửi về báo Hà
Tĩnh bài viết nhỏ này mà mong rằng, qua sự tiếp cận độc
giả của tờ báo, biết đâu người chiến sĩ bệnh binh năm xưa
sẽ liên lạc được với đứa cháu bé dại, yếu ớt ngày nào trên
đường Trường Sơn.

bia_bui_q._thanh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét