THẦN ĐỒNG CHĂN KIẾN VÀ MỤC ĐỒNG
CHĂN THƠ
PHẠM CÔNG TRỨ
Ấy là Trần Đăng Khoa, người đã là “Thần
đồng” ở tuổi U 10. Song, với tôi thì Trần Đăng Khoa là một “mục đồng”, kẻ không
chăn trâu mà chăn thơ trên cánh đồng làng. Trước khi chăn thơ bé Khoa đã chăn
kiến, vày giun ở góc sân nhà mình. Sau này bàn chân Khoa in dấu khắp nơi, thơ
Khoa cũng mở rộng biên độ, chỉnh độ cao thấp, song tôi, và chắc không chỉ riêng
tôi, vẫn thấy chỉ ở hai “sân chơi” nói trên mới đích thực là Trần Đăng Khoa.
Khi Ò ó o vang lên
Trần Đăng Khoa khởi đầu đời thơ từ góc sân nhà em.
Một buổi sáng mùa xuân đẹp trời, bé Khoa đuổi theo cánh bướm đang rà ngang sân
qua vườn ra ngõ. Như trêu chú bé, bướm vàng xà xuống lượn vòng vút lên, bay mất.
Hụt rồi. Tiếc nuối, song bù lại, chú vồ được bài thơ đầu tiên “Con bướm
vàng/ Con bướm vàng/ Bay nhẹ nhàng/ Trên bờ cỏ/ Em thích nó/ Em đuổi theo…”. Cũng
may, chú vồ hụt nên “con bướm vàng” còn lãng đãng mãi trong ký ức tuổi
thơ, chứ nếu không thì (xin lỗi cụ Tố Hữu cùng chú đồng chí “Lượm”): “Một
cái xác nhỏ/ Thôi rồi bướm ơi!”. Như vậy, nếu bảo rằng tác phẩm là đứa con
tinh thần của nhà thơ, thì ở tuổi lên tám bé Khoa đã có “đứa con thơ” đầu lòng
là con bướm vàng, trình làng văn.
Sau này, cũng cái tứ này, song con bướm vàng hóa
thành con cá vàng “Con cá vàng/ bơi nhẹ nhàng/ trong bể nước/ đố ai
bơi được/ như con cá vàng”. Bài thơ chẳng rõ tác giả này có cái hay của một
câu đố vui, ngắn gọn, dễ thuộc nên trẻ mẫu giáo rất thích. Con bướm vàng chập
chờn trên bờ cỏ xanh mướt ở làng quê, còn con cá vàng lãng đãng trong sóng sánh
bể cảnh nơi phố thị. Sẽ có nhiều em bé quê thuộc thơ rồi mong đuổi bướm, hái
hoa, song chẳng biết có em bé phố nào thử bơi được như con cá vàng không?
Cánh bướm thơ mộng song êm ả, rụt rè quá chưa khiến ai chú ý. Dù làng xóm lúc ấy người ta đã ít nhiều truyền tai nhau về cái thằng con nhà ý mới tí tuổi mà đã nói ra thơ, tức xuất bản bằng “mồm”. Phải đến khi tiếng gà “Ò… ó… o…/ Ò… ó… o…” dõng dạc cất lên từ góc sân nhà Khoa thì làng Điền Trì mới giật mình, xôn xao cả lên. Cái tiếng gà từng hồi dồn dập, cấp tập, hết giục quả na mở mắt, giục hàng tre đâm măng, rồi giục buông chuối, giục hạt đậu, giục con trâu, giục đàn sao, giục ông trời nó mới tinh khôi, hồn nhiên làm sao. Từ con vật, con người đến đất trời cây cối, ở cái làng ấy đều bừng tỉnh, náo nức, sống động hẳn lên. Sau khi một vài bài thơ Khoa đăng báo trung ương thì làng văn xúm lại, ngơ ngác hỏi nhau: “Trần Đăng Khoa là đứa nào vậy?”.
Thấy lạ, nhà thơ Xuân Diệu về tỉnh, giữa đêm khuya
ông tìm về khảo sát cái sân, rồi xách đèn soi vườn nhà Khoa. Sau chuyến thực địa
cái “vũ trụ tí hon”, “chỗ đầu nguồn của thơ Khoa”, ông viết bài phát trên đài
thì danh tiếng Trần Đăng Khoa vang như sấm rền. Giữa thời bom đạn mà có người ở
đẩu đâu hỏi thăm tìm về tận làng, xem cái đất ấy “địa linh” thế nào mà lại xuất
“nhân kiệt””. Xem phong thủy, lại còn vào tận nhà tò mò bắt thằng bé xòe tay
xem đường chỉ, vạch tóc xem khoáy, vạch áo xem rốn, vạch quần xem… rồi im lặng
ra đi, rất bí hiểm. Xem để thấy thằng cu có gì khác lạ không, mà sao lại tài thế.
Hóa ra, cái làng Điền Trì xuất thần đồng ấy là một
làng chiêm trũng lam lũ, người dân ở đây cũng xắn quần lội ruộng, chổng mông gặt
lúa, chẳng khác gì dân làng mình. Còn thần đồng là thằng cu “bé như cái kẹo”
(chữ của Chế Lan Viên), cũng lem luốc, chỉ được cái lém lỉnh, hỏi gì đáp lấy,
như trạng tái thế. Lại có người không tin những bài thơ đó do Khoa làm, để nhân
tiện vừa thử tài thần đồng, vừa kiểm tra độ thực hư, họ yêu cầu cậu bé phải ứng
khẩu thơ ngay tại chỗ, đề tài là do họ ra.
Mười tuổi (1968) Khoa đã có tập thơ “Từ góc sân đến
khoảng trời”. Ở nước mình, hình như trước Khoa chưa hề có, sau khoa chẳng biết
có hay không. Khoa là độc nhất vô nhị. Chẳng những ở Việt Nam mà còn tầm thế giới.
Và cái nghệ danh “thần đồng” thơ, như một con chíp của giời gắn vào Trần
Đăng Khoa, định vị đời Khoa từ đấy. Cái tên Trần Đăng Khoa lẫy lừng đến nỗi đã
khiến một ông nhà văn xứ Nam, tỉnh Thái, trùng tên chạnh lòng phải đổi thành
Khoa Đăng cho khỏi… “chạm húy”! Dù ông
nhà văn này họ Nguyễn và bố mẹ đã đặt tên Đăng Khoa trước thần đồng hàng chục
năm.
Sau này, phục tài Khoa có nhà phê bình, một tiến sĩ
Tây học khá nổi tiếng, đã dụng công làm hẳn
một quyển sách hơn hai trăm trang đặt tên là “Trần Đăng Khoa thần đồng thơ”. Cuốn
sách xuất bản năm 2000 này nghe nói bán chạy, bìa rực một màu hồng bình minh
đang lên. Chắc là người thiết kế bìa được gợi ý từ câu thơ “gọi ông trời/
Nhô lên/ Rửa mặt” trong bài “Ò ó o” của thần đồng chăng?
“Thần đồng” chăn kiến, vầy giun trên sân
nhà
“Thần Đồng”, đại để theo giải nghĩa của tự điển thì là đứa trẻ thông minh, có năng khiếu khác thường. Còn với dân quê thì thần đồng là người có khả năng làm những việc mà người ở tuổi nhi đồng (nay gọi là “tuổi nhí”) không làm được. Thần Đồng là tài giời, là “con Giời”. Cụ Tố Hữu, vị trưởng lão của làng văn nghệ, người đã phát biểu “tôi không thích chữ này lắm” cũng phải thừa nhận “Tinh hoa văn hóa của dân tộc đã dồn đúc vào một số ít người, trong đó có Khoa. Giời đã mượn cái miệng trẻ con của Khoa để làm thơ cho người lớn đọc…”. Thời ấy, đồng thời và sau Ò ó ó là “Ôi bốn bề/ Bát ngát/ Tiếng gà”. Một số đứa trẻ trạc tuổi Khoa cũng làm thơ đăng báo, song chỉ có Khoa được “chúng khẩu đồng từ” là thần đồng nước Việt. Không thần đồng thì làm sao một đứa trẻ quê ở tuổi còn ngịch đất, bụng chưa có mấy tí chữ, mà đã có cả một sân thơ, một vườn thơ, một ao thơ, rồi sau đó là một cánh đồng thơ dài rộng như vậy.
Với thần đồng, góc sân, mảnh vườn, bờ ao là cả một
vương quốc của côn trùng, vật nuôi như bướm, chim, gà, chó, mèo, giun, dế, cá…
và cùng với đó là một thế giới của thảo mộc: trầu, na, chuối, mía, dừa... Trong
cái vương quốc tí hon ấy, Khoa thỏa sức khám phá cảnh vật, phát hiện chính
mình. Như một ông vua không ngai song đầy uy quyền của một phù thủy nhí, bằng vốn
ngôn ngữ ít ỏi nhưng lại rất hồn nhiên, sinh động, bé Khoa đã bắt những cây con
tầm thường, nhàm chán ấy phải gáy lên, hát lên, múa lên, tấu lên theo cái “điệu
tâm hồn” của chú. Cái chất giọng nửa hồn nhiên, ngộ nghĩnh, nửa sâu sắc, hóm hỉnh
của Khoa khiến không chỉ các bạn đồng lứa mà cả các bậc “phụ huynh”, các cây đa
cây đề làng văn nghệ cũng phải ngạc nhiên theo Khoa, trầm trồ cùng Khoa. “Bàng
hoàng”, “xúc động”, “ám ảnh”, “giời cho”, “giời mượn”… là những hình dung từ chỉ
sắc thái, những giới từ chỉ mức độ, mà người ta hào phóng tặng cho cậu bé tên
Khoa làng Điền Trì.
Chỉ nội một bài Mưa đã bầu Khoa là thần đồng.
Trời mưa, đứa trẻ nào thích chí, nghịch ngợm lắm thì chạy ra sân trần truồng tắm
rồi reo cười với nhau trong bữa tiệc giao hoan của đất trời, chứ làm sao thấy
được mối trẻ bay cao, mối già bay thấp, gà con ẩn nấp, mía múa gươm, kiến hành quân,
cỏ gà rung tai, bụi tre gỡ tóc, bưởi bế con, dừa sải tay, mồng tơi nhảy múa,
cóc nhảy, chó sủa…. Đó đúng là ngày hội kì vĩ của thiên nhiên, con vật, cây cối
và cả đất trời. Mà cái kỳ vĩ ấy lại hiện lên ở ngay tại mảnh sân và góc vườn
nhà Khoa, với cái oai phong của “Ông trời/ Mặc áo giáp đen/ Ra trận, cái
lạ lùng của “Sấm/ Ghé xuống sân/ Khanh khách/ Cười”. Nhưng kỳ vĩ, lạ
lùng hơn cả là “Bố em đi cày về/ Đội sấm/ Đội chớp/ Đội cả trời mưa”.
Cứ một ánh chớp lóe lên, kèm một tiếng sấm, thì hình
ảnh người bố vai vác cày tay vuốt nước mưa lại như một lần tạc thêm vào mắt người
con đang lo lắng nhìn ra sân. Ba chữ “đội” nối tiếp nhau có hơi khoa trương,
song trong bối cảnh của “một cơn mưa gió nặng nề”, dưới cái nhìn của một
đứa trẻ con, thì lại thấy nó hợp lý dù có ít nhiều thần thoại hóa. Chỉ bằng vài
chục câu, ngắt nhịp một, nhịp hai, tung tẩy tự do, theo cái tiết tấu của dông lốc,
gió mưa, thế mà Mưa có cái dung lượng của một khúc tráng ca về thiên
nhiên và con người, vừa hòa hợp vừa vật lộn với nhau trong cái vũ khúc sinh tồn
của trời đất lúc sang mùa. Thông thường thơ cổ kim hay nói về mưa buồn, diễn tả
nỗi cô quạnh của con người, thì Trần Đăng Khoa góp vào một cái nhìn khác về
mưa. Đó là sự giao tranh giữa con người bé nhỏ và thiên nhiên kỳ vĩ. Thiên
nhiên đã kỳ vĩ, con người còn kỳ vĩ hơn. Chẳng có lời xưng tụng, biểu dương về
tầm vóc của người lao động, lại là bác thợ cày nào mạnh mẽ mà lại kiệm lời hơn
thế.
Sau này, Khoa có hẳn trường ca Đánh
thần hạn khá hoành tráng, ca ngợi sự đoàn kết cùng tinh thần quyết chiến
quyết thắng của người nông dân trước thiên nhiên “Thần nào ta cũng đánh tan/
Vì đầu ta có nhiều lẽ phải/ Vì tim ta không hề sợ hãi/ Vì tay ta lấm láp phù
sa”. Hoành tráng, đa nhân vật, giàu suy tư, song dù vậy, “ta” trong
đoàn quân chiến đấu với thần hạn, lên tận trời, không gây ấn tượng mạnh bằng
“không ta” trong trận “mưa” có kiến hành
quân, cóc nhảy, chó sủa ở ngay trên sân nhà.
Người viết sực nhớ đến vở múa “Hạn Hán
và Cơn Mưa” nổi tiếng khắp sân khấu
Âu-Mỹ do nghệ sĩ Ea Sola Nguyễn Thủy (người Việt quốc tịch Pháp) dàn dựng
trên nền nhạc chèo. Chẳng biết khi dựng vở này Ea Sola có lấy cảm hứng từ thơ
Trần Đăng Khoa hay không, nhưng các bà nông dân Thái Bình “bước thẳng từ
ruộng lúa nước lên sân khấu nghệ thuật quốc tế” “nhảy múa tung hoành như thôi
miên khán giả trên sân khấu Paris, Amsterdam, London” (lời Nguyễn Duy) nhất
định ít nhiều đã từng đọc hoặc nghe nói về Mưa, Hạt gạo làng ta và Đánh thần
hạn của Khoa.
Đâu chỉ có Ò ó o, Mưa, bằng cái nhìn tinh tế,
bé Khoa còn cảm thấy sự mơ hồ của một cái lá đa rơi nơi đền Côn Sơn (Ngoài
thềm rơi chiếc lá đa/ Tiếng nghe rất mỏng như là rơi nghiêng), chú mục vào
một cái vại nước ở sân nhà (Nghe trời trở gió heo may/ Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau), hay lắng thấy (Vườn
xanh biếc tiếng chim/ Dơi chiều khua chạng vạng). Nhiều
nhiều những câu thơ kiểu thần đồng như vậy. Người ta có thể bảo Khoa ảnh hưởng
từ đồng dao, từ cổ tích, thần thoại, từ văn ông này thơ bà kia. Hẳn có thế.
Nhưng dù vậy, vẫn phải thừa nhận phần sáng tạo của Khoa là chủ yếu.
Ở độ tuổi vừa qua nhi đồng thì chơi và học, chơi và
làm cứ đan bện vào nhau, kể cả thứ trò chơi cao cấp là thơ phú. Không nói ra,
song câu “tất cả đều là bạn tôi”, ứng đúng với thơ Khoa, nhất là ở thời đầu. Là
bạn của nhau nên đều bình đẳng, dù đó là bạn “hai chân” như con gà, con chim, bạn
“bốn chân” như con chó, con trâu, bạn “không chân” như cây trầu, cây na, cây
chuối, cây đa, con cá, con giun. Con… người cũng chỉ là một thứ con “đa chân”
mà thôi, kể cả chân ảo và ... chân thật. Thì con Nhân sư (sphinx) trong thần thoại Ai Cập cổ đại chẳng có câu
đố hắc búa mà đầy thâm thúy, rằng “Con gì mà sáng đi bằng bốn chân, trưa đi hai
chân, chiều đi ba chân, và khi nó càng đi bằng nhiều chân thì nó càng yếu” đấy
thôi!
Là bạn,
nên “tao - mày”, hay “chúng tao - chúng mày” là cách xưng hô tự nhiên và cũng
là hợp lý nhất. Hãy nghe Khoa dỗ dành cây trầu “Tao đã đi ngủ đâu/ Mà trầu
mày đã ngủ”, hay nói với con Vàng trong tưởng tượng “Mày không bắt tay
tao/ Tay tao buồn làm sao”, hoặc an ủi con gà mái mất con vì bom Mỹ “Mày
nhìn tao, con mắt lạc hẳn đi/ Trong mắt vằn những tia máu đỏ/ Cái nhìn cháy như
hai hòn lửa/ Có phải tại tao đâu!”. Khoa nâng niu, trìu mến bạn mình, nên
không lạ gì khi tán thán từ “ơi” cùng với các dấu hỏi, dấu than xuất hiện hơi
nhiều “Trăng ơi, từ đâu đến?”, “Trầu
ơi, hãy tỉnh lại/ Mở mắt xanh ra nào!”, “Trâu ơi, ăn cỏ mật/ Hay là ăn cỏ gà”, kể
cả “Khoa ơi, thầy giáo của mày đã xa” ...
Dưới mắt của đứa bé vừa qua tuổi nhi đồng thì tất cả
mọi vật, mọi loài chẳng những là bạn bè, mà còn như có anh em, họ hàng với
nhau, đều như mang tính người, đều có linh hồn, dù mỗi thứ, mỗi loài một “cá
tính”. Vậy nên buổi sáng sân nhà em mới hội đủ các gương mặt của một gia
đình nhà quê: Ông trời nổi lửa, bà sân vấn khăn hồng, ả mèo rửa mặt, mụ mái cục
tác, thằng trống huyên thiên, cái na tỉnh giấc, đàn chuối vỗ tay, chị tre chải
tóc, nàng mây soi gương, bác nồi đồng bùng boong, bà chổi loạt quẹt.
Trong vườn thì dun, dế, kiến là những giống nhỏ bé
nhất, lành hiền nhất và cũng bị người đời coi thường nhất. “Con sâu, cái kiến”,
chấp gì. Chửi “đồ chó” mới chỉ là miệt thị, chứ rủa “đồ giun dế” mới thực là
coi khinh. Ấy vậy mà trong thơ Khoa giun
dế, chó mèo chúng cũng ở vai “chú” “bác” bình đẳng với ông trời, bà sân, mụ gà,
ả mèo…. Bác thì suốt ngày hì hục đào đất (Bác giun đào đất suốt ngày),
chú thì ung dung ngồi vuốt râu (Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu) mặc bốn
bề tiếng máy bay rú rít, lẫn tiếng bom, tiếng pháo cao xạ.
“Thế đấy giữa chiến trường/ Nghe tiếng
bom rất nhỏ” hai câu thơ của người lính công binh Phạm Tiến Duật
ở Seng Phan khiến người đọc nước ngoài ngây ngất thán phục về sự dũng cảm, bình
thản xem thường bom đạn của người Việt Nam trong chiến tranh đã đành. Song, người
ta cũng sửng sốt không kém khi thấy chú dế mèn ung dung ngồi vuốt râu bên bờ
tre ao trường trong thơ của một thiếu nhi mười tuổi. Chưa đến Việt Nam, chỉ bằng
hình dung chiến tranh khúc xạ qua thơ dịch, người ta đã nhận định rằng, trong
cuộc chiến không cân sức này, Mỹ nhất định sẽ thua!
Bác giun, một người lao động cần cù, tận tâm đã qua
đời ở ngay gốc cây sau nhà. Thương bác, bé Khoa đã làm ma cho bác. Đây là một
đám ma kỳ lạ nhất trong số các “đám hiếu” trong thi ca: các con nhiều chân đưa
đám một con không chân. Trong Đám ma bác giun góp mặt cả họ hàng nhà kiến:
kiến già, kiến con, kiến đất, kiến cánh, kiến lửa, kiến kim, mỗi con một diện mạo,
một cá tính, giữ một “vai” nhất định: Con đi trước, con đi sau, con cầm hương,
con khóc than, con khoác áo tang, con đốt đuốc, con chống gậy, con nặng vai.
Đám ma có một không hai này kéo dài từ vườn chuối, vườn khoai qua vườn cà
rồi kết ở Kiến đen uống rượu la đà/ Bao nhiêu kiến gió bay ra chia phần.
Không thấy nói đến mộ bác. Bác giun không có mộ. Ngầm
hiểu thi hài bác được “táng” ở bụng kiến. Thế giới loài vật là vậy. Con này làm
thức ăn cho con khác là theo quy luật sinh tồn của tự nhiên, không có vấn đề
thiện-ác ở đây. Được hiến thân cho kẻ khác, nếu sự hy sinh đó có ý nghĩa thì có
gì mà buồn. Mẹ đất sản sinh ra bao cỏ cây, hoa lá làm gì nếu không để nuôi dưỡng
bao con vật, trong đó có con người. “Người ta là hoa của đất” cơ mà! Thế giới
loài người cũng hao hao loài kiến: bụng mỗi người chúng ta nếu tính toán ra thì
hỏi đã “táng” biết bao nhiêu cây con? Nói như thế, không phải là hạ thấp, phí
báng con người mà thấy rằng con người chúng ta cần khiêm tốn, biết điều. Có biết
bao cây con khác, đã vì cuộc sống của con người mà chấp nhận hiến sinh.
Xung quanh Đám ma bác giun đã có nhiều cách
hiểu theo góc nhìn khác nhau, cách “tán” khác nhau. Theo chiều nhân văn, nhân bản,
mà là của đa số, thì bác giun là người lao động chết vì làm việc quá sức, lũ kiến
vì tình làng nghĩa xóm cùng xúm lại làm ma, đâu ra đấy rất chu đáo. Theo chiều
phản biện, lên án, có người thấy bác giun chính là thân phận người nông dân
nghèo, do hoàn cảnh kiếm sống o ép lao lực quá mà chết. Lũ kiến đưa tang cũng
chẳng tử tế gì, đang đói khát, thì đây là một dịp may để được… làm thịt bác. Ở
một cái đám tang như đám này, ai khóc cứ khóc, ai buồn cứ buồn, sẽ vẫn có một bọn
xem đây là “cơ hội” để được ngồi uống rượu la đà, để rình bay ra chia phần. Cảnh
này không chỉ đơn thuần phản ánh hủ tục ở làng xã xưa, mà vẫn sẽ diễn ra ở mọi
xã hội.
Cũng cách “bình tán” này có người bảo ở bài Ò ó o,
khi “ông trời nhô lên rửa mặt” thì bầy sao phải “chạy trốn”,
nghĩa bóng ám chỉ khi cái mới, cái tốt xuất hiện thì cái cũ, cái xấu cái phải tự
nhiên rút lui. Tất cả thay đổi bắt đầu từ ba tiếng Ò ó o. Mà Ò ó lại từ miệng
Khoa, giời mượn, mà ra! Tinh vi hơn, họ còn tán rằng, sau ba tiếng ấy những cây
đa, cây đề của làng văn ta đều chết lặng vì thấy mình sắp bị ông trời con là thần
đồng Khoa mới nhô lên làm cho lu mờ đi!
Theo người viết, đây cũng là một ví dụ thú vị, mang
tính bí ẩn “ý tại ngôn ngoại” của thơ mà ngay cả người làm ma bác là bé
Khoa cũng không ngờ tới. Tuy nhiên, nhìn dưới góc độ nào, thì thiết nghĩ, không
có những ngày chăn kiến ở góc sân, vầy giun ở góc vườn, và không nhập được vào
cái hồn của ca dao, đồng dao, ngụ ngôn, cổ tích vừa hồn nhiên vừa thâm thúy, nhất
là không có chất “ma”, chất “quái” pha trộn cùng chất “người”, thì không có đám
ma bác giun. Chỉ bằng 12 câu lục bát bé Khoa viết như chơi, mà lại như gói
trọn một kiếp giun trong xã hội loài kiến. Mà ngẫm ra đâu chỉ là chuyện giun,
chuyện kiến!
Sống ở
làng quê nên ngoài cánh bướm, thơ Khoa còn có nhiều “chim” nhiều “hoa“. Song, hoa cau của gió heo may lúc
giao mùa xuân hè nơi góc sân nhà là tinh tế nhất, ấn tượng nhất. Chỉ vẻn vẹn
một cặp lục bát “Nghe trời trở gió heo may/ Sáng ra vại nước rụng đầy hoa
cau” đã khiến người đọc chẳng những như nhìn thấy cánh hoa trắng li ti ánh
lên chất dân dã nơi đáy vại nước, mà còn như cảm thấy mùi hương quê kiểng quanh
quất đâu đây.
Trong Góc sân
và khoảng trời tràn ngập cái tình với cây (cây na, cây dừa, cây xoan, cây
bàng…), với con (con bướm vàng, con chim hay hót, con cò trắng muốt, con gà liếp nhiếp, con trâu đen lông
mượt…) nhưng cảm động hơn cả là tình người. Trong số bạn
hai chân, gần gũi nhất, đáng yêu nhất là bé Giang “Nhăn nhăn cái mũi hở mười
cái răng” mỗi khi bé cười. Chơi với em, “chăn” em, xem ra còn ý vị,
tự hào hơn chăn kiến vì cái sự được làm anh. Đưa võng cho em ngủ, Khoa có Tiếng
võng kêu. Trong cái kẽo cà kẽo kẹt (không phải Kẽo
cà kẽo kẹt, lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra…trong cổ tích), đồng hiện lên “Cây na thiu thiu thiu/ Mắt
na hé mở/ Nhìn trời trong veo”, cùng với cánh cò “lặn lội bờ sông”, cánh
bướm “mênh mông mênh mông”, và dáng mẹ “lom khom trên đồng”, dáng
chú pháo thủ “canh trời nắng trong”. Rõ ràng, đó là dáng dấp của làng
quê đang bận rộn sản xuất và sẵn sàng chiến đấu. Song hình ảnh đẹp nhất, làm
nên trung tâm của “kẽo cà kẽo kẹt” là em bé đang mơ giấc thần tiên của “Tóc
bay phơ phất/ Vương vương nụ cười”.
Dậy em đánh vần, Khoa có Kể cho bé nghe: “Hay
nói ầm ĩ là con vịt bầu/ Hay hỏi đâu đâu/ là con chó vện…”. Nó như một khúc
đồng dao hiện đại vì cùng với vịt bầu, chó vện, nhện con… là dây điện, trâu sắt,
máy bơm, những sản vật của nông thôn thời nay. Cùng chơi với em, Khoa có Đánh
tam cúc. Sợ mèo buồn vì thua cuộc, Khoa thay em dỗ mèo “À thôi mày được!
Bé Giang dỗ dành/ Mèo thè lưỡi đỏ/ Liếm vào răng nanh”. Lo cho em, Khoa có Dặn
em đừng chơi xa để còn ra kịp hầm tránh máy bay, đừng ra ao cá kẻo trượt
chân ngã nhào, rồi kết ở “Mẹ cha bận việc ngày đêm/ Anh ngồi trong lớp lo em
ở nhà”.
Khi mẹ vắng nhà,
ngoài “chăn” em, Khoa làm tất cả những công việc của một đứa trẻ con nông thôn
sớm biết nghĩ, như luộc khoai, giã gạo, thổi cơm, nhổ cỏ, quét sân ngõ. Bài thơ
giản dị, chỉ có kể lể, liệt kê qua điệp ngữ “khi mẹ vắng nhà em…”, chẳng có một
chút “tu từ” nào, ấy mà lại vẫn rất thơ, rất cảm động. Cảm động bởi nó thực, nó
giản dị, nó có cái hiếu thảo của “Áo mẹ mưa bạc màu/ Đầu mẹ nắng cháy tóc/ Mẹ
ngày đêm khó nhọc/ Con chưa ngoan chưa ngoan!”.
Mẹ ốm là bài thơ điển
hình cho tình mẫu tử thiêng liêng mà thằng con bé bỏng dành cho mẹ mình. Người
con nào cũng yêu kính mẹ, nhưng chẳng phải đứa nào cũng cảm được“Nắng mưa lặn
những ngày xưa/ Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan”, cũng thấy được “Cả đời
đi gió đi sương/ Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi”. Đứa con ấy còn làm tất
cả những gì, miễn là mẹ vui như “Ngâm thơ, kể chuyện, rồi thì múa ca”, kể
cả “…diễn kịch giữa nhà/ Một mình con đóng cả ba vai chèo”. Hai câu kết “Rồi
ra đọc sách, cấy cày/ Mẹ là đất nước tháng ngày của con” mang tính khái
quát ở tầm cao mà lại rất tự nhiên. Những bài thơ Khoa viết về bà, về bố, về
anh chị, các chú bộ đội…cũng có những câu thơ cảm động, thấm thía.
Như vậy, không đâu xa, Khoa lấy toàn những cảnh, những
sự, những việc diễn ra hàng ngày ở xung quanh làm thi liệu, thi ảnh cho thơ
mình. Hơn nữa, những cảnh, những sự, những việc ấy còn được Khoa thể hiện bằng
những cảm xúc rất hồn nhiên, giản dị, chân thực. Cái “thi pháp” tạm gọi là kể
và tả, cảm và gợi, cùng với nhịp thơ năm chữ hoặc bốn chữ, được thể hiện điển
hình ở các bài Kể cho bé nghe, Em kể
chuyện này, Kẽo kà kẽo kẹt mà em nhặt được ở sân nhà. Bút pháp này cũng được
Khoa cấu tứ ở nhiều bài khác, như Cánh đồng làng điền trì, Thôn xóm vào
mùa”, Cầu Cầm, Hà Nội…
Phát hiện cái khác thường trong cái bình thường, thậm
chí là tầm thường cùng với lối kể có duyên, sự tả có hồn, nhất là ở sự “chốt” lại
và “thăng hoa” ở những câu kết, kèm với nhạc điệu khúc xạ từ ca dao, đồng dao,
đã làm nên nét độc đáo, tài hoa của thơ Khoa. Chúng chẳng những chứa đầy chất
thơ, du dương chất nhạc, mà còn ăm ắp chất người. Chứ nếu yếu cảm xúc, non tay
nghề, thì chẳng những việc kể sẽ nhàm, sự tả sẽ nhạt, mà những khát quát, nâng
tầm cũng sẽ khó thuyết phục. Bẩm sinh đã đành, được rèn dỗ cũng có. Sau này, Khoa có lần phát biểu “Trong
con mắt tôi, cây cối, trâu bò, gà lợn, chó mèo cũng có niềm vui, nỗi buồn như
những con người. Tình cảm ấy, tôi tiếp nhận được từ mẹ”.
Mục đồng chăn thơ trên đồng làng
Tôi cứ nghĩ, các cụm từ có chữ “đồng”, như “nhi đồng”,
“mục đồng”, “thần đồng”, “cánh đồng” thì ít nhiều giữa chúng như có mối liên
thông qua lại nào đó. Điều này ứng với trường hợp Trần Đăng Khoa. Chẳng biết
nhà Khoa có nuôi trâu không, nhưng tôi thấy bé Khoa hao hao có cái dáng mục đồng
thời nay, chứ không phải “Mục đồng là trẻ chăn trâu/ Ăn sống ăn xít vật nhau
cả ngày” của ca dao xưa. Là con nhà lành, có học, có đọc sách nên “mục
tử” họ Trần nhẹ cái phần nghịch ngợm, lăn lóc, mà nặng về nghĩ ngợi, lam làm.
Dù rằng cái làm, cái chơi, cái nghịch ở tuổi lên mười vẫn còn như một quán
tính.
Trong khi ra sông cùng lũ trẻ đánh dậm, Khoa thấy“Này
chị Cua càng giơ tay chào biển lúa/ Này thằng Dói nhớ ai?/ Mà khóc mắt đỏ ngầu
như lửa/ Này lão Trê nhảy võ ở đâu? Mà ngã bẹp đầu!”. Đi “chọc ếch” nghe tiếng ộp ộp Râm ran suốt cả trời chiều, Khoa cũng tiện mồm… hát theo một bài
như một chú ếch cốm. Trong khi kéo xe chở phân ra ruộng, Khoa vẫn
không quên reo lên “Ái chà, con cà cuống/ Bỏ ngay vào ống bơ!”. Qua Trận địa bỏ không, Khoa
thấy mình như con “Dế co càng đạp cỏ xanh/ Cất cao giọng gáy một
mình ri ri”. Qua cầu Cầm, cây cầu có biết bao chuyện kể cả
chuyện “một máy bay Mỹ rụng”, Khoa thấy “Uống nước hố bom sâu/ Nghé con vênh
mặt cười”. Hố bom sâu hút, nham nhở như muốn kéo tụt con người ta xuống,
nhưng tiếng cười cùng cái vênh mặt của “chú nghé tên Khoa”, nó cao hơn bom đạn,
nó hóa giải cái chết. Nó là của quý trong đời, của hiếm trong thơ.
Như đã nói, góc sân, mảnh vườn, bờ ao, đã cho Khoa
những vần thơ hồn nhiên, trong trẻo mang dáng dấp thần đồng, song dù sao đó
cũng là một không gian nhỏ hẹp, một khoảng trời giới hạn. Phải ra “Cánh
đồng vui reo/ Gió đồng rộng rãi” thì Khoa mới có
cái chững chạc, khoáng đạt của một thiếu niên bắt đầu từng
trải gió nắng.
Cũng là lao động kiếm sống, song nay không phải là“Bác
giun đào đất suốt ngày” mà là bác trâu và các bác thợ cày “Tiếng trâu và tiếng người/ Vang ruộng dài lõm bõm”. Giọng
thơ của Khoa cũng biến đổi, từ trong trẻo hồn nhiên sang nặng dần suy tư. Trong
khi thấy“Con cò/ Trắng muốt/ Bay ra đón cơn mưa”, Khoa còn thấy“không
ai biết/ Con cò/ Co ro/ Chịu rét trên cành cây”. Vẫn là gió, song không còn
là“Cô gió chăn mây trên đồng” mà là bão “Bão đến ầm ầm/ Như đoàn tàu
hỏa/ Bão đi thong thả/ Như con bò gầy…Mặt bão thế nào/ Suy ra cũng biết”. Mặt
trời bây giờ không hồn nhiên chơi trò “đạp xe qua đỉnh núi” mà là ông trời của “mưa
bạc màu”, “nắng cháy tóc”. Vẫn ao, song không còn cái tha thướt của “Chị
tre chải tóc bên ao/ Nàng mây áo trắng ghé vào soi gương” mà là “Bờ ao lở.
Gốc cây bàng cũng nghiêng/ Quả bòng chết chẳng chịu chìm/ Ao con mà sóng nổi
lên bạc đầu; “Rêu nằm mơ những sấm sét/ Rồi khô trên cọc cầu ao”.
Thơ Khoa còn có “con mắt trời” và “con mắt đất” bí
hiểm. Con mắt trời rừng rực “Đêm đêm con mắt ấy/ Cháy bùng trên mặt ao”,
con mắt đất hun hút“Đêm đêm con mắt ấy/ Nói điều chi với trời?”. Đấy là
những ngôi sao, những chiếc giếng đã được Khoa nhân hóa, thế sự hóa. Nên biết rằng,
nông thôn nước ta ở những năm tháng ấy, bên cạnh cái tốt đẹp, hào hùng, cũng
đang tích tụ dần những mặt trái của hợp tác hóa kiểu cũ, để rồi vỡ ra Cái
đêm hôm ấy đêm gì, như tên một bút ký gây chấn động văn đàn của nhà văn xứ
Thanh, Phùng Gia Lộc ở thời cuối bao cấp, đầu Đổi Mới.
Ra đồng, như bao thành viên của làng, Khoa được
tắm trong hương đồng gió nội, hòa nhập vào hơi thở của đất đai, mùa màng. Đó là
cái hương sực nức hăng nồng của “Mùi bùn đang ngấu/ Mùi phân đang hoai”. Đi
trong niềm vui gieo trồng, Khoa như thấy “Thịt da ta cũng/ Tỏa hương
ruộng đồng” (Hương đồng). Trong bầu sương khói mờ mịt của đồng chiều vừa
cày xong, thêm một lần Khoa cảm nhận “Đất trời cách một gang mây/ Và tôi
cùng với luống cày tỏa hương” (Đồng chiều).
Tôi tin
rằng, hình tượng bố em đi cày về đội cả trời mưa, sấm chớp, vụt hiện ở sân nhà,
song nó đã manh nha từ khi Khoa ra đồng. Hình tượng mẹ em đi cấy giữa trưa
tháng sáu Khoa cũng nhặt được ở ngoài đồng. Tôi đã nói về cái kỳ vĩ của bố em
đi cày về, trong ba chữ “đội”, ở bài mưa, song phải nói thêm rằng, mấy
câu viết về mẹ trong Hạt gạo làng ta cũng kỳ vĩ không kém, mà lại như có
phần gần gũi, dân dã hơn. Bởi vì cái “đội” của bố em còn có phần khoa trương,
thần thoại hóa, chứ cá cờ, và nhất là hình tượng “cua ngoi”, “mẹ xuống”, thì
đích thị là của đồng quê Việt. Bài thơ mẹ ốm viết bên giường mẹ, song cái hồn
vía của “nắng mưa từ những ngày xưa/ Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan”,
Khoa cũng nhặt được trên cánh đồng làng.
Ra đồng,
bạn gần gũi bây giờ là con trâu thay cho con Vàng thân thiết trong sân. Con
trâu đen ở đầu tập thơ là con trâu của tập làm văn“Con trâu đen lông mượt/
Cái sừng nó vênh vênh/ Nó cao lớn lênh khênh/ Chân đi như đạp đất”. Con
trâu“Ngửi mùi rơm mới/ Cái chân dậm liên hồi” cũng là một phát hiện tinh
song vẫn là trâu ở sân kho hợp tác. Chỉ có “Tiếng trâu và tiếng người/ Vang ruộng dài lõm bõm” mới là con trâu thực sự đang lao động
trên cánh đồng làng Điền Trì.
Con trâu, người bạn của nhà nông, cũng có lúc được Khoa thi
vị hóa. Ấy là cảnh nhòe mờ trong sương sớm của“Trâu quên đôi sừng lấm đất/
Tưởng mình lững thững lên trăng”. Hay cảnh trâu thơ thới trong lúc nông
nhàn“Làng quê lúa gặt xong rồi/ Mây hong trên gốc rạ phơi trắng đồng/ Chiều
lên lặng ngắt bầu không/ Trâu ai no cỏ thả rông bên trời”. Thời Thơ Mới,
Đoàn Văn Cừ đã bất tử trâu bằng cái nhìn lãng mạn “Con trâu đen chúi mũi
đứng bên đồng/ Cứ liếm mãi nắng vàng trên cỏ biếc”, thì thời nay Trần Đăng
Khoa, như một nghệ nhân nhí của làng, cũng đóng đinh hình ảnh con trâu vào bức
tranh quê “Em nhỏ cưỡi trâu về ngõ/ Tự mình làm nên bức tranh” (Khi mùa
thu sang).
Mảnh sân cũng như cánh đồng - những “sân chơi” của các nhân
vật trong thơ Khoa, như đều có “dương bản” và “âm bản”. Mảnh sân ban ngày là
của ông mặt trời, của chó đâu đâu, gà cục cục, thì vào đêm là của hàng cau, cây chuối, con
chim, con sâu đắm chìm trong ánh trăng. Cánh đồng
lúc đang mùa, vào vụ, là cày bừa, gieo cấy, tiếng trâu, tiếng người, tiếng liềm
hái, thì lúc vãn mùa là của mây hong trên gốc rạ, bạch đàn nỉ non soi bóng trên
đầm, luống cày đang sủi tăm, đống hoang nằm thiêm thiếp.
Nếu trăng sáng sân nhà diễn tả tâm trạng một mình
với trăng, rợn ngợp cùng trăng, tan chảy vào trăng, thì ở đồng quê Khoa
cũng diễn tả cái tâm trạng một mình với cánh đồng, thả hồn vào cánh đồng, đắm
mình vào cánh đồng chiều. Chỉ khi“Có con châu chấu phương nào/ Bâng khuâng
nhớ lúa đậu vai em” thì thi nhân mới giật mình, bừng tỉnh khỏi tâm trạng
phiêu diêu, kỳ thú. Dù cùng là cái nhìn hướng nội, chưng cất tâm hồn mình, song
rõ ràng sân trăng nó siêu hơn đồng chiều vì lúc ấy bé Khoa ở tuổi
lên 8, còn bây giờ đã là anh Khoa của 16 tuổi (= 2 X 8).
Có thể nói rằng, nếu xâu chuỗi “bộ ba” hình tượng“Bố em
đi cày về…” và “Mẹ em xuống cấy” cùng con trâu đang “lõm bõm”
trên đồng, thì vô tình bé Khoa đã diễn giải hóa, “Khoa hóa”, cái hồn cốt của
câu ca dao xưa“Trên đồng cạn, dưới đồng sâu/ Chồng cày vợ cấy, con trâu đi
bừa”. Khác chăng, là trên đồng làng bây giờ có tiếng máy cày lẫn với tiếng
máy bay, tiếng bom đạn thời chiến. Tương tự, trong bài Hạt gạo làng
ta, bé Khoa chẳng những diễn tả được cái nghĩa tình sâu nặng của câu ca dao“Ai
ơi bưng bát cơm đầy/ Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”, mà còn có
tính thời sự nóng hổi của“Những năm băng đạn/ Vàng như lúa đồng/ Bát cơm mùa
gặt/ Thơm hào
giao thông”.
Là người Việt, ai cũng đã từng trồng lúa, hoặc gần gũi
những người trồng lúa, đã múc canh bằng muôi và cơm bằng đũa, nhưng hỏi đã mấy
ai thấu hiểu và nhất là diễn ngôn được bằng thơ một cách giản dị mà sâu sắc
những tinh chất Việt trong hạt gạo như chú bé Khoa ở tuổi chín mười? Cũng không nghi ngờ gì nữa, “bộ bốn” các bài Cánh đồng làng
Điền Trì, Làng xóm vào mùa, Hương đồng, đặc biệt là Hạt gạo làng ta,
đã đưa Khoa thành một trong những cây viết sống động nhất, sâu sắc nhất, cảm
động nhất (tóm lại là hay nhất), về cánh đồng và hạt gạo một thời.
Hẳn có người sẽ cho rằng, thơ bé
Khoa thời đó toàn
đề cao cái hay cái tốt, ít thấy những góc tối, mặt khuất vốn có của làng quê.
Song, nếu ai sống vào thời “cả nước lên đường”, “xẻ dọc Trường Sơn” thì
họ sẽ không lạ. Trước vận mệnh còn mất của dân tộc, vì nghĩa lớn, nên từ tiền
tuyết đến hậu phương, con người ta đã tự “lớn” dậy, “tốt” lên không ngờ. Nó hào
hùng đến độ mà Tố Hữu phải ngạc nhiên:“Đời
rạng rỡ, mỗi con người tự sáng”;
Chế Lan Viên phải ngây ngất: “Ôi! Ta là ta mà lại cứ mê ta”; Chính Hữu
thì hồ hởi:“Sung sướng bao nhiêu: tôi là đồng đội/ Của những người đi,
vô tận, hôm nay”; Phạm
Tiến Duật thì náo nức“Đường ra trận mùa này đẹp lắm”. Còn có thể dẫn ra
nhiều nhiều những câu thơ mang vẻ đẹp lãng mạn cách mạng như thế. Là chứng nhân của
một thời, lài là người trong cuộc, Trần
Đăng Khoa cũng đã từng phát biểu đại ý là “mang dấu ấn của một thời, những câu
thơ ấy đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của nó”.
Nhìn
chung, cánh đồng và người nông dân trong thơ Khoa có “ngọt bùi đắng cay”, song
không quá lam lũ, cơ cực. Đó là cánh đồng hợp tác xã thời chống chiến tranh phá
hoại, nằm trong quỹ đạo của đồng bằng Bắc Bộ được bồi đắp bởi phù sa của hệ
thống sông Thái Bình, sông Kinh Thầy. Nó là tiền thân của cánh đồng thời “Khoán
Mười” sau này, và cánh đồng “Mẫu Lớn” sau này.
Hiện nay, hình bóng
con trâu, người thợ cày, thợ cấy gần như nhạt bóng trên đồng và vắng bóng trong
thơ. Nên vui hay nên buồn? Vui vì “Núi rừng có điện thay sao/ Nông thôn có
máy làm trâu thay người”. Phải sau 60 năm câu thơ của nhà thơ lãng mạn cách
mạng Tố Hữu mới đang dần thành hiện thực. Hạt gạo, hạt vàng, hạt ngọc của làng
ta, bản ta, phum sóc ta, đã và đang có mặt trên các kệ hàng khắp từ Á sang Âu,
từ Phi sang Mỹ. Tâm thế của người nông dân Việt nay đã khác nhiều với thời “cua
ngoi lên bờ, mẹ em xuống cấy” của Trần Đăng Khoa, càng khác xa với thời của
“chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa” trong cái tâm trạng thấp thỏm của “trông
trời, trông đất, trông mây” trong ca dao xưa.
Khác vậy, song ngẫm
ra lòng như lại thấy nao nao buồn vì những hình ảnh làng quê Việt ngàn đời, cái
làm nên sức sống Việt, lưu giữ tâm hồn Việt, cứ ngày một mất dần. Thậm chí, hiện
nay có nơi người ta đã quên gieo trồng, cấy gặt, ruộng đồng bỏ không lâu ngày cỏ
dại mọc đầy. Con quái vật đô thị hóa với lòng tham không cùng đang hút vào
cái dạ dày không đáy của nó mọi hay dở, vui buồn của kiếp người nông dân xứ ta
thời nay. Muốn hay không, đô thị hóa, công nghiệp hóa, số hóa vẫn diễn ra theo
quy luật của nó. Dù vậy, thơ Trần Đăng Khoa cùng với thơ của các nhà thơ thuộc
“trường thơ Quê” vẫn có ý nghĩa như một bảo tàng lưu giữ ký ức đồng quê. Mỗi
khi mệt mỏi, chóng mặt giữa vòng xoay cuộc đời, vòng xoáy đô thị, người ta lại
tìm đọc lại họ, như một kiểu về nguồn để thanh lọc tâm thân, với tinh thần ý
thơ “mượn” của cụ Tố Hữu “gần đất lòng ta trong sáng hơn”.
Thử lý giải thêm về thần
đồng
Nói lý giải “thêm”, vì không ít các
nhà nghiên cứu, cùng các bậc thức giả đã dụng công đi tìm sự giải thích, cắt
nghĩa theo những cách khác nhau, mà cách nào xem ra cũng có lý, rằng cái gọi “thần đồng” của Khoa đến từ đâu, do đâu mà
có?
Người thì cho rằng Khoa được trời
phú cho cái năng lực đặc biệt về nghe, nhìn, cảm, lại biết vận dụng phép “nhân
hóa”, “lạ hóa” trong đồng dao, ca dao, cổ tích, thần thoại. Tổng hợp lại, nhân
lên, cộng hưởng thành… thần đồng. Có người
giải thích sự
cảm nhận thế giới của Khoa bằng cái nhìn “vật ngã đồng nhất" (mọi vật với ta như một), hay “vật ngã nhất như” (sự vật và mình là một) của
Lão-Trang. Cái nhìn này cho người ta bầu
bạn với hết thảy vạn vật xung quanh, có thể nghe được mọi âm thanh của cây cỏ,
trò chuyện được với muôn loài, giao cảm hòa đồng với thiên nhiên.
Lại có người lý giải bằng cái nhìn tâm linh qua câu
chuyện chết đi sống lại đầy chất “bí sử” của chú bé Khoa. Tình tiết thì ly kỳ
song tóm lại thì, lên một tuổi Khoa đã bị nhiễm bệnh tả do có dịch xảy ra ở địa
phương hồi 1958-1959. Bé Khoa ngừng thở, đã bó chiếu chờ “đến giờ Dậu thì
đem ra đồng”, thì bỗng nhiên sống lại một cách thần kỳ sau một mũi thuốc
tiêm, một đốt ngón tay củ gì (có lẽ là sâm) cùng những lời cầu khấn. Ngay lúc
đó đã có người cười
bảo: “Thằng cu này chết đi sống lại thế này là người nhà giời đấy. Sau này
nó ắt hơn người”. Sau khi Khoa nổi tiếng, một vị cao tăng đã lý giải thần
đồng bằng thuyết “đột biến”: “Việc chết đi sống lại cũng có thể là một cơ
duyên để anh tiếp nhận những năng lượng đặc biệt từ vũ trụ để tạo nên một thần
đồng thơ lừng lẫy sau này”.
Người viết còn muốn góp thêm một
cách diễn giải nữa theo văn hóa Phật giáo, rất gần với cái nhìn
Lão-Trang. Theo đó, thì “thần đồng” gần với “thần thông”. Hiểu nôm na thì “thần” là “thần kỳ” và “thông” là “thông đạt, thông hiểu”. Đó là khả năng siêu phàm của người
tu luyện (chủ yếu là do công phu thiền định) mà có. Đến cảnh giới đó,
tâm con người trở lên tĩnh tại và trong suốt, hòa đồng với tự nhiên với vũ trụ
và sẽ đạt được “lục thông”, ứng với Như Lai, đắc
chính quả Phật. “Tam thông” ở mức thấp và phổ biến hơn, gồm “thiên nhãn
thông”, “thiên nhĩ thông”, “tha tâm thông”. Theo đó, khi đạt được cảnh giới
“tam thông”, thì người ấy có thể nhìn thấy mọi vạn
vật ở mọi nơi, mọi cõi, có thể nghe được
mọi âm thanh của mọi loài, có thể “đọc” được suy nghĩ của vạn vật.
Những đứa trẻ anh nhi, vốn tâm
trong, ý sáng (chân tâm) bẩm sinh đã có khả năng thần thông. Trần Đăng Khoa thời “hậu nhi đồng, tiền thiếu niên” cũng ít nhiều
có khả năng ấy. Khoa không phải là kỳ nhân, cũng không là siêu nhân. Khoa là thần
đồng vì hơn các trẻ em khác cùng lứa tuổi ở bộ nghe, nhìn, cảm của em nhậy hơn
và nhất là cái khả năng mở miệng thành thơ, hay “diễn ngôn” thơ, như cách nói
bây giờ. Ngoài thứ năng lực bẩm sinh, Khoa còn tiếp thu tình cảm, vốn sống từ lời
ru của mẹ, từ chuyện kể của bà, từ kiến thức tổng hợp ở cái tủ sách bé tí mà
anh Minh (sau này là nhà thơ tên tuổi Trần Nhuận Minh), một thầy giáo làng,
dành cho em mình.
Và, điều quan trọng là không thiếu được
lao động thi ca: “lao động, lao động và lao động”, đó là yêu cầu của người thầy
lớn Xuân Diệu rỉ vào tai đệ tử nhí của mình. Nghe lời thầy“Tôi đã lao động
miệt mài, lao động không mệt mỏi như thế từ bé”, Khoa hồi tưởng lại. Nhà
thơ Lê Đạt, người từng nhận mình là “phu chữ”, đã từng bày tỏ “Tôi không mê những nhà thơ thần đồng. Tôi ưa những nhà thơ một
nắng hai sương, lầm lũi, lực điền trên cánh đồng giấy, đổi bát mồ hôi lấy từng
hạt chữ". Quan niệm của này của
Lê Đạt có hơi cực đoan song cũng không hề mâu thuẫn khi soi vào trường hợp Trần
Đăng Khoa. Có điều lao động thơ của Khoa không để lại dấu vết của một “phu chữ”,
nằm ở sự kỳ khu đẽo gọt, hay tỉ mẩn bẻ từ, cấy chữ, mà ở việc chọn con chữ sao
cho đúng và trúng, nghĩa là đắc địa. Những chữ “đội” trong “đội sấm, đội chớp,
đội cả trời mưa” khi nói về bố, hay từ “ngoi” trong “Cua ngoi lên bờ/ Mẹ em
xuống cấy” khi nói về mẹ, là hai ví dụ nhỏ về sự đắc địa của câu chữ, nên
cũng “đắc nhân tâm” vậy.
Lại nữa, cũng chính thần đồng đã từng
công khai rằng, hồi đó mình đã viết một số câu, số bài mà bây giờ nhớ lại thấy
rất dớ dẩn, thậm chí buồn cười. Vậy nên cứ mỗi lần tái bản tác phẩm, tác giả của
nó vẫn chi chút căn chỉnh để “góc sân” được vuông vức hơn, và “khoảng trời” được
tròn trặn hơn, cũng như “Tuyển tập thơ Trần Đăng Khoa” sau này toàn bích hơn. Ở
mấy lời đầu sách viết cho “Trần Đăng Khoa thần đồng thơ ca” nhà thơ còn
trần tình rằng: “Bi kịch của đời tôi là tôi đã cầm bút từ lúc có 8 tuổi và từ
đó, không biết vì cái gì và tại sao, tôi đã buộc phải giã từ thời trẻ con”.
Như vậy, hóa ra để được đời gọi là “thần đồng” đâu có dễ. Trời hào phóng, song
trời cũng ky bo, kiết cú lắm, có cho không ai cái gì bao giờ!
Cái năng lực đặc biệt của Khoa thể hiện
rõ nhất ở các bài Mưa, Đám ma bác giun, trăng sáng sân nhà em…
như đã nói trên. Với bé Khoa thuở ấy, thì bất kỳ ai, thứ gì cũng có thể cất lên “tiếng nói” : “À uôm, ếch
nói ao chuôm/ Rào rào, gió nó cái vườn rộng rênh/ Âu âu, chó nói đêm thanh/ Tẻ...
te... gà nói sáng banh ra rồi/ Vi vu,
gió nói mây trôi/ Thào thào, trời nói xa vời mặt trăng”. Con đường vẫn đi hằng ngày cũng có lần lên tiếng: “Đường
rằng tao nhớ lắm thay/ Khoa ơi thầy giáo của mày đã xa”. Không chỉ
thấy“Chim ngoài cửa sổ/ Mổ tiếng võng kêu”, mà đôi khi bé Khoa còn
nghe được “Một tiếng gì lạ lắm/ Xôn xao cả đất trời”. Đáng lưu ý là, khi bộ ba “nhìn”,
“nghe”, “cảm” kết hợp với nhau, mờ chồng lên nhau, thì thơ Khoa trên cả tuyệt vời.
Đó là cái nghe không phải bằng tai, cái nhìn không phải bằng mắt mà bằng trái
tim, tức là bằng “tâm”: tâm cảm, thấu cảm.
Cái sân thì ở làng quê nhà nào chả có, có cái còn “bắt
mắt” hơn sân nhà Khoa, nhưng chỉ có tác giả Trăng sáng sân nhà em là thấy“Hàng
cây cau lặng đứng/ Hàng cây chuối đứng im/ Con chim quên không kêu/ Con sâu
quên không kêu/ Chỉ có trăng sáng tỏ/ Soi rõ sân nhà em”. Thực ra thì cây
cau, cây chuối vẫn đang “nói” thứ ngôn ngữ tự nhiên của chúng, nghĩa là vẫn phe
phẩy, đẩy đưa cái tàu, cái lá của mình, con chim, con sâu vẫn kêu cái ngôn ngữ
nghìn đời của tổ tiên chúng. Chủ thể “quên” ở đây là bé Khoa. Như một thiền giả
khi đã nhập tĩnh, bé Khoa lúc đó đã bỏ quên “cái tôi” trẻ con bên trong mình và
cả cảnh vật bên ngoài, để hòa vào với cái ta, tức là đại ngã của thiên nhiên,
vũ trụ. Ấy là người viết nghĩ thế, chứ Khoa ở tuổi ấy chỉ hồn nhiên dãi bày
lòng mình với gió, tỏ tình với trăng, chứ đã biết cái “tôi”, cái “ta” là gì!
Vườn, cũng như sân, nhà nào chả có nhưng chỉ Khoa thấy
“Lá xanh vẫy gió như là gọi chim” vào ban ngày, “Lá xanh lấp
ló như là gọi trăng” vào ban đêm. Rồi nữa, “Nghe hàng chuối vườn em/ Gió
trở mình trăn trở/ Chuột chạy giàn bí đỏ/ Loang vỡ ánh trăng vàng” (Nửa đêm
tỉnh giấc). Vườn đã thế, ao cũng vậy. Bao đứa trẻ đã buông câu bên bờ ao
song chỉ Khoa “đọc” được tính cách của từng con cá, đó là lão cá ngão “Cái mồm
to hơn mình/ Mắt đỏ vằn gian giảo”; là cụ cá rô “Đầu đen sạm lầm lì/ Thường
nháy phao đột ngột/ Rồi lừ lừ lôi đi”; là cô cá diếc thơ ngây “Hay vơ vẩn
rong chơi/ Nhung nhăng khoe áo trắng/ Và nhẩn nha rỉa mồi” (Câu cá).
Rõ ràng là, cái nhìn hòa đồng, thấu cảm, đã cho Khoa
những câu thơ thần đồng. Trong văn học xứ ta, ngoài việc hai người có công làm
bất tử con trâu như đã nói trên, thì còn có hai người vô tình đã có công làm bất
tử con chó, là Nam Cao và Trần Đăng Khoa. “Cậu Vàng” của Lão Hạc, và “bạn Vàng”
của bé Khoa - một lão già nông dân đơn cô, và một cậu bé quê lên chín. Về già
hóa trẻ con, lão Hạc nhấu nhí, trò chuyện với “cậu Vàng” cũng như bé Khoa bắt
tay âu yếm “bạn Vàng” của mình, mỗi khi đi học về. Chỉ có những người sống ở
làng, tâm hồn gần với đất đai cây cỏ, thì những con vật nuôi mới được họ nâng
niu, trừu mến, trọng vọng như vậy.
Dù gì, sớm hay muộn con người vẫn phải tuân theo quy
luật sinh học bất biến, là lớn lên và trưởng thành. Vào tuổi lên mười (1968)
Khoa thấy năm nay em lớn lên rồi. Giữa Khoa và cảnh vật thiên nhiên đã bắt
đầu có sự giãn cách “Nhìn trời, trời bớt xa
xăm/ Nhìn sao, sao cách ngang tầm cánh tay/ Núi xa lúp xúp chân mây/ Bờ sông
khép lại (hay gần lại?), hàng cây khép dần” Bước vào tuổi mười bảy
(1975), Khoa lên đường nhập ngũ, mở ra trang đời mới: “Em chẳng còn bé bỏng
như xưa/ Chiếc khăn quàng em đeo đã bắt đầu thấy chật/ Những trang giấy cứ cồn
lên trước mặt/ Đường hành quân dẫn đến mọi chân trời”.
Khi Khoa xuất ngoại, ngồi
bên cửa sổ máy bay nhìn xuống mặt đất và tưởng tượng cảnh mẹ đang đứng bên dậu cúc tần nhìn lên “thằng con trai của mẹ/ Đang lượn
bay trên cao thẳm bầu trời” và “con lại cười vang như sóng dưới bầu trời”. Tiếng cười của anh Khoa bên cửa sổ máy bay bây giờ thật sảng khoái và sung mãn, khác hẳn với cái cười của nghé Khoa vênh mặt bên hố bom “cầu Cầm”
ngày nào.
Sau Ò ó o thì trong thơ Khoa tiếng gà còn một lần nữa
vang lên“Đêm dần khuya cao cao vòi vọi/ Bỗng vút lên/ Chót vót/ Tiếng gà/ Trẻ
như thời trời đất mới sinh ra...”. Đây là tiếng
gà của cô Bưởi, người du kích anh hùng bên sông Kinh Thầy“Cô Bưởi lắng nghe
tiếng gà rừng rực/ Thấy sức triệu người hồi sinh trong lồng ngực/ Và cô đi/ Bên
đám cháy/ Chưa tàn”. Tiếng gà vút lên trong cái đêm đen tối của làng quê thời
thực dân mất nước cũng sống động, lay động lòng người, song không làm giật mình
người ta nữa. Bé Khoa đã vỡ giọng thành anh Khoa. Chú gà trống choai đầy hăm hở,
tự tin đang gồng mình lấy hơi để gáy những hồi dài trong trường ca gồm rất nhiều
“khúc”, có cái tên chung khá hoành tráng là “Khúc hát người anh hùng”.
Lý tính dần đã thay cho trực
giác. Cái khôn, cái khéo đã thay cho cái hồn nhiên, ngộ nghĩnh. Cái “tôi - tiểu
vũ trụ” của Khoa ngày một lớn lên và đòi quyền được khẳng định mình trong cái
“ta - đại vũ trụ”. Cái “tôi trữ tình” trong thơ Khoa cần phải được mở rộng biên
độ, đào sâu suy tư. Cái nhìn “vật ngã đồng nhất”, những phép “thần thông” đã dần
bỏ Khoa mà đi cùng với tiếng cây, tiếng cỏ, tiếng
gió, tiếng chim của làng quê, tiếng trăng sao huyền bí của vũ trụ. Khoa cũng sớm nhận ra điều ấy, anh
đã như tự thú trong bài “Bến đò”:
Mất một nỗi gì không thể tìm lại được
Ta đi, lòng vẫn ở nơi đây
Ai cũng chỉ có một lần
Cái thuở thơ ngây...
Vâng, ai cũng có một lần cái thuở
thơ ngây, song chỉ Trần Đăng Khoa là có một thuở thần đồng! Cái thuở thần đồng
“giời cho”, “giời mượn” ấy đủ để tác giả Góc sân và khoảng trời lấy làm
vốn liếng, đào bới, chưng cất, ăn theo suốt cả đời mình, mà không có ai đặt điều
so bì, ghen tỵ.
Ấn
tượng Trần Đăng Khoa
Tôi gặp Trần Đăng Khoa vào giữa năm 1990, khi anh đang học năm thứ hai
ở Viện văn học mang tên M.Gorky ở Moskva. Còn tôi vừa xuống sân bay Sheremetyevo đang trên đường về Đại học Tổng hợp Kiev (CH Ukraina), ghé
qua. Lúc ấy còn là Liên-Xô, về các nước cộng hòa thì mặc định phải qua Moskva.
Không khí buổi gặp Khoa cùng với các học viên Nguyễn Đình Chiến, Châu Hồng
Thủy, Vũ Xuân Hương, Thùy Linh, Nguyễn Thu Thủy…ở lớp dự bị tiếng Nga ở Trường MГУ nổi tiếng, mà
tôi đã có dịp nhắc tới ở bài viết “Nguyễn Đình Chiến - Một con nghiện vô
phương cứu chữa”.
Khi ấy Trần Đăng Khoa còn là chàng độc thân ở tuổi “cuối hăm
đầu băm”, và cũng là “đầu hâm”, đang cặp kè bạn gái. Bóng dáng “thần đồng” chỉ
còn phảng phất ở cái thông minh hóm hỉnh, kiểu chú Tễu của rối nước ao làng.
Nhìn chung, đó không phải là sự thông minh lịch lãm của sách vở, dù Khoa đọc
nhiều, mà là cái lém lỉnh, tếu táo, kiểu “nói trạng” xưa. Thì ra thần đồng cũng
như mình, mang dáng vẻ của một trai làng có chữ nghĩa. Mình xấu trai, song “con giời”
xem ra cũng không đẹp hơn. Mình đã nông dân nhưng hắn như cũng nông dân không
kém. Mình đã muộn vợ, thì hắn cũng còn đang săn tìm cái nửa kia. Có thua là
thua về cái gọi là “thần đồng thơ”, là “con giời”!
Trần Đăng Khoa là người thực tài, chân tài, chứ không phải là kẻ tài hoa, tài tử. Ngoài thứ anh hoa phát tiết
ra tay (khi cầm bút viết thơ, viết văn) và ra mồm (khi đăng đàn giao lưu) thì hình như trời chẳng ban cho
Khoa chút hoa tay, tài lẻ, tài vặt nào (hay trời có ban
mà Khoa lý tài, không thèm triển hiện ra thì cũng không rõ). Không vẽ vời, không nhạc nhiếc, không bay bướm, điệu đà, cũng không
rượu chè, giai gái tùm lum. Toát ra từ con người Khoa là sự giản dị,
dân dã, từ ăn mặc đến ăn uống và cả ăn nói.
Mặc với Khoa thời ấy bốn mùa thường là bộ đồ quân đội màu cỏ úa, mũ
lưỡi trai. Thứ thức ăn ưa thích của Khoa là cá kho với rau muống luộc chấm
tương. Lòng lợn chấm mắm tôm, ở cái thời khốn khó hình như cũng là món khoái
khẩu của Khoa. Tôi biết thế vì cả hai lần Khoa cùng bạn gái xuống Kiev chơi,
thì đều được bọn đàn em ở đấy thết món dạ dày lợn chấm chanh mắm, mang sang từ
Việt Nam. Vừa ăn Khoa vừa lắc lỏm: “Các ông ở U (Ukraina) sướng thật, chỉ vài
rúp mà ăn dạ dầy lợn thoải mái”. Ăn nói thì Khoa cứ thủng thẳng, khụng khiệng,
nhưng đố ai bắt chước được kiểu khụng khiệng như vậy. Khoa có bộ thần kinh
vững. Vừa nằm xuống mấy phút là đã có thể ngáy khò khò. Người thế, nhìn chung
là sướng. Chả bù cho hắn, là người dễ nuôi, nhưng khó ngủ.
Tuy không có máu đàn đúm trà rượu nhưng Khoa cũng tỉ mẩn, chẳng hạn
như thích sưu tầm các
thứ máy ghi hình, thu âm, hay chơi trò bói toán. Dưới mắt “Tây”, người như Khoa, cả
bộ dạng lẫn tướng tinh, như ẩn chứa một cái gì rất bí hiểm của kiểu người
Á-đông. Bày trò bói toán chẳng để làm gì, chỉ để được cầm tay những nữ sinh Nga
mới dậy thì mà đã phổng phao như người lớn, rồi phán mấy lời huyền bí về “đường
tình”. Về thơ tình, người tình, Khoa có thể nhường S.Esenin, chứ cái khoản bói
tay này thì Khoa hơn đứt “con họa mi của nước Nga”. Không phải là con gái làng Konstantinovo, tỉnh Ryazan, quê hương
Esenin, song các em mắt xanh, tóc vàng mặt cũng đỏ lựng lên, rồi cười ngặt
ngẽo. Khoa có lần kể với tôi thế.
Sang Tây, Khoa có những “Qua
Bôrôdinô”, “Qua Xuzđan” “Uống rượu với
người bạn Nga”, “Đến Vác-na nhớ
Na-dim Hít-mét”, “Pa-blô Nê-ru-đa”,“Mátxcơva - Mùa đông năm 1990”… Những bài
thơ ấy đều chứa đựng ý tưởng, đều gói ghém thông điệp, chúng không “lép” so với
mặt bằng thơ nói chung. Dù vậy, tôi chỉ thấy Chiều Riazan (với lời đề từ “nhớ Xecgây Esenhin”) là có hồn vía, hồn Nga pha lẫn hồn Việt, trong nhịp
thơ năm chữ quen thuộc: “…Thấp thoáng căn nhà gỗ/
Nương hồn nước Nga xưa/ Dòng sông trôi mộng mị/ Chết đuối trong sương mờ...”. Hai câu kết “Lẽ nào Xéc gây còn/ Mà nước Nga lại chết” nghe hơi “sái”, song vẫn chấp nhận được trong
bối cảnh tao loạn, ôi ác của thời nước Nga “hậu Xô-viết”.
Nhớ cái lần cùng ngồi với nhau ở bên xứ
Bạch Dương cách nay đã nhiều chục năm, Khoa có để ngỏ tâm sự: “Thơ mình có nhiều
nét tương đồng với thơ S.Esenhin”. Tôi biết Khoa yêu quý, say mê đến sùng bái
Esenin - “nhà thơ Nga nhất trong số các nhà thơ Nga”. Thơ ông được Du-ma Nga
xem “là Kinh Thánh của tâm hồn Nga”. Căn hộ của anh thời ở “phố nhà
binh” Lý Nam Đế có treo bức thảm chân dung khá lớn của nhà thơ này, ngay ở phía
trên lối cửa vào. Chẳng biết anh mua hay do ai tặng. Tuy nhiên, tôi chỉ thấy Khoa có nét tương đồng với nhà thơ Nga ở
những sáng tác đầu đời. Vào thời ấy, họ đều lấy cánh đồng, mẹ, em, hay con chó,
con trâu, con bò, cây bạch dương, cây lúa, tóm lại là đồng quê, người quê, làm
cảm hứng cho thơ mình. Xa rời những cái “hương hỏa” ấy, thơ của cả hai đều như
kẻ “chân không đến đất, cật không đến trời”, thiếu dần sinh khí.
Thiết tưởng, với hai nhà thơ, một
Nga, một Việt, này thì cái sân, mảnh vườn và cánh đồng, nghĩa là cái không gian
làng quê, có ý nghĩa như Mẹ Đất với thần Ăng-tê trong thần thoại Hy Lạp. Chàng lực sĩ Ăng-tê chỉ
là vị thần vô địch, nếu chân chạm vào đất, nhận sức mạnh từ đất mẹ Gai-a.
Khi bị nhấc ra khỏi mặt đất thì chàng sẽ “bất đắc kỳ tử”. Esenhin đã tự treo cổ
mình, ngẫm cho cùng thì nguyên nhân chính yếu là do quẳng thân vào giang hồ,
ông đã lâm vào bế tắc cả trong tình trường lẫn trong văn trường. Là “thần
đồng”, Khoa không “bất đắc kỳ tử” song xa quê hương, ruộng đồng, cây cỏ, giun
dế, cua cáy, thì “cái hồn” trong thơ Khoa xem ra có vợi đi. Thêm
nữa, Esenin, cái người tuyên bố “Nếu không là nhà thơ/ Tôi sẽ là kẻ cướp”,
đã kết thúc đời mình ở tuổi 30 bằng một chiếc cà-vạt cùng với những dòng tuyệt
thế “Trên
đời này, chết là điều chẳng mới/ Nhưng sống, thật
tình, cũng chẳng mới gì hơn”, nó cực dữ dội và quyết liệt, cả trong
thơ và trong đời. Đời Khoa cả trong chính trường, tình trường cũng như văn trường,
nhìn chung, không mấy thăng trầm, mà nếu có thì “thăng” vẫn là chính.
Họ Trần tự lên lão rất sớm, trước cả khi có Blog “Lão Khoa” đình đám.
Lên lão sớm song Khoa lại trẻ lâu. Ở tuổi “nhi nhĩ thuận” mà mặt mũi Lão vẫn
nhẵn nhụi, tóc vẫn ít muối nhiều tiêu, răng lợi vẫn chửa cãi nhau. Lâu lâu gặp
lại, khó nhận ra vết thời gian cày xới trên khuôn mặt, nửa Phật nửa Tễu của
Lão. “Thím” hay “các thím” là cụm từ Khoa thường dành cho chị em. “Thím dạo này
sao trông nuột thế!”, “các thím làm cho không chỉ đám trai trẻ mà người như Lão
đây cũng phải… đi khom”. Đại loại vậy. Thời Khoa chưa vợ, đi đăng đàn, Khoa hay
bị hỏi xoáy, hỏi móc về chuyện tình, vì họ cứ tưởng Khoa bí, Khoa “ái”. Nào ngờ
Khoa đã không bí, mà còn chủ động tán chuyện tình ái, khiến “đối tác” phải
kiềng nể, còn đại chúng thì thích thú rỉ thầm vào tai nhau “đúng là Khoa
“cuội”, “kẻ vạch giời rơi xuống!”.
Khoa muộn vợ. Tôi đã muộn, hắn còn muộn hơn. Đã lên “lão” rất lâu Khoa
mới cưới vợ, nên vợ đã xinh lại trẻ, còn đảm đang nữa. Hôm cưới hắn không thèm
mời tôi. Gặp Khoa tôi trách: “Ông khinh tôi quá. Làm việc đại sự mà không mời
lão đây”. Khoa cười cười: “Chuyện vợ con tôi với ông cùng cảnh muộn cả, còn lạ
gì nữa. Cho nó xong một việc. Tôi chỉ mời những ai không thể không mời”. Thì ra
là vậy! Cho “xong một việc” dù là việc lớn, như người ta bảo. Điều này thì tôi
cùng phe và hoàn toàn nhất trí với Lão.
Khoa hay hẹn hay hứa, xong lại quên ngay. Có lẽ biệt danh Trần Đăng
“Hứa”, Khoa “Cuội” khởi nguồn từ những cái đại loại như thế. Không coi trọng
tiền bạc song là người thực tế, ở thời buổi khó khăn của nước Nga, Khoa đã từng
có dạo xách ca-táp theo người ta đi săn thuốc Tây gửi về quê bán kiếm lời, song
rồi anh cũng sớm bỏ. Sau này, khi đã “vợ bìu con ríu” căn hộ trở nên chật chội,
Khoa săng sái đi tìm thăm mua nhà riêng, và cũng mặc cả, trả giá như ai. Dù là
trước đó, tôi có nhắc đến chuyện nhà cửa là Lão gạt phắt đi, giọng rất phũ: “Sau
khi chết, Lão đây không có trách nhiệm gì với cái đống bầy nhầy của mình để
lại” (!). Chẳng những thế, Lão nắm bắt thời cơ chuyển đổi sang nơi ở mới cho nó
“hoành tráng” hơn, rồi còn sắm cả “bốn bánh” nữa. Ngồi ôm bụng “bầu” trong xe,
nhường vợ cầm tay lái lụa, dáng dấp Lão chẳng khác nào một bá tước Nga mới lên
đời, thời hậu Xô-Viết.
Với
Khoa, “thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh”
và “suốt đời, y luôn có ý thức vươn
tới loại thơ đó”. Chẳng biết Khoa có đọc Lục Du không, song rõ ràng anh
đã thấm cái quan niệm “Công phu thâm xứ thi bình dị” (Thơ hay nhất là thơ bình dị) của nhà thơ lớn thời Nam Tống. Khen thơ Khoa hay ở sự giản dị không có
nghĩa là chê thơ cầu kỳ. Thiết tưởng, cái hay của thơ không phải tại cầu kỳ, hay giản dị, mới hay cũ, mà ở chỗ nó có
chuyển tại được một “lượng tâm hồn” nào đến bạn đọc không”? Có chia sẻ với ai
đó khi họ vui và nhất là có vỗ về, an ủi khi họ mất mát, đau khổ không? Ở đây
chỉ muốn nói rằng Trần Đăng Khoa viết về những cái bình thường, thậm chí là tầm
thường mà vẫn thơ, vẫn hay. Thế mới khó,
mới tài.
Nhìn chung,
thơ Khoa cũng “mộc” như con người Khoa, không vặn vẹo câu chữ, son phấn điệu đà. Nếu phân giới
tính thì thơ Khoa thuộc loại “trung tính”, chẳng đậm tính nữ cũng chẳng rõ tính
nam. Đọc nhiều, giao tiếp rộng, thụ học với toàn những “cao nhân” bên trời Tây,
vậy mà trong văn xuôi của Khoa tôi không thấy anh trích dẫn ông “ốp” ông “ép”,
bà “ôi” bà “êy” là cái mốt, và cũng là cái cần, của những người có tem mác. Đọc
văn phê bình, chân dung của Khoa không có cái “sướng” được ngợp mình trong biển
kiến thức hàn lâm của một học giả, mà là cái “thú” bắt gặp một cây
bút thông minh,
tưng tửng, có khả năng phát hiện những cái khác thường trong những cái bình
thường, cùng một giọng văn trần mộc, hóm hỉnh, thậm chí “hơi ác” (lời giáo sư
Nguyễn Đăng Mạnh - một người cũng thường có những nhận xét “ác” như thế).
Trong đời thường Khoa có “cuội” nhưng lại khá trung
thực trong viết lách, cẩn trọng trong câu chữ. Khoa đã tự nhận mình là “nhà
thơ khoác áo lính”, và đã có lần tự
bạch “Thuở bé, y từng ước mơ trở thành kỹ sư nông nghiệp và suốt đời làm thơ
về làng quê, cảnh quê, những vui buồn của người dân quê ở nơi xóm mạc..”. Về
cái việc viết, Khoa có lần tâm sự
trên báo: “Tôi chỉ có thể viết được cái gì tôi đã thực sự thấy bằng mắt, chỉ
rung cảm về cái gì thực sự tôi đã trải trong tâm trí mình. Có thể tìm thấy
trong thơ tôi những sự việc hoàn toàn có thực của bản thân tôi, gia đình tôi,
làng quê tôi... Tôi thực sự biết ơn cái làng quê nhỏ bé của mình đã nuôi dưỡng
tôi như vậy”.
Trong lĩnh
vực văn chương, tôi thấy nhà thơ Trần Đăng Khoa có nhiều nét tương đồng với nhà
văn Lê Lựu, vì cả trong đời và trong văn hai người đều đậm chất nông dân pha
trộn chất lính tráng. Khoa có lần tâm sự trên báo: “Tôi chỉ có thể viết
được cái gì tôi đã thực sự thấy bằng mắt, chỉ rung cảm về cái gì thực sự tôi đã
trải trong tâm trí mình. Có thể tìm thấy trong thơ tôi những sự việc hoàn toàn
có thực của bản thân tôi, gia đình tôi, làng quê tôi... Tôi thực sự biết ơn cái
làng quê nhỏ bé của mình đã nuôi dưỡng tôi như vậy”. Cha đẻ “Giang Minh
Sài” đã có lần tự bạch, một thứ tự bạch rốt ráo đến nỗi khiến người ta nghi ngờ cái sự nói thật, viết thật của ông: “Tôi là người ít học, ít đọc, vì lười nghĩ ngợi.
Toàn bộ những trang viết của tôi chỉ theo đuổi một nguyên tắc là Thật. Tôi
không thể viết được nếu không bám vào sự thật. Tôi chỉ là người chép truyện,
“có gì viết nấy”.
Hai “lão thợ cày”, một
thơ, một văn xuôi - một tròn trịa nhẵn nhụi, một lởm chởm râu ria, là đồng
hương Hải Hưng một thời này mà cặp đôi với nhau trong những buổi giao lưu, nhất
là về chủ đề đi Mỹ vào thời đầu đổi mới, hội nhập, thì chỉ có là “bố đời”, “mẹ
thiên hạ”. Nếu mục kích cảnh họ “diễn”, và “xướng” thấy còn ly kỳ, lôi cuốn hơn
cả chuyện thiên hạ đệ nhất Trạng An-Nam đi sứ nước Tàu xưa. Cái “tài” của họ là
biến những chuyện nghiêm chỉnh, tầm cỡ quốc gia, thậm chí quốc tế, trở thành tầm
phào, và ngược lại. Tưởng như vô bổ, mà lại được việc. Những người như thế thường
không xuất hiện ở chốn trường ốc, theo kiểu khoa cử, hay được tổ chức cơ cấu,
mà như sen súng, nhô lên từ bùn đất lam lũ ở chốn làng quê Việt, theo quy luật
chọn lọc tự nhiên. Nếu tổ chức dụng công nuôi trồng, cơ cấu, có khi lại thành
ra phản tác dụng.
Sau này,
Khoa học lên, đi nhiều, biên độ thơ Khoa cũng mở rộng hơn, suy tư, khái
quát, triết luận cũng nhiều hơn, song, với
tôi, chỉ những trang viết về làng quê mới sống động, mới thật là Trần Đăng Khoa. Và, cũng chỉ những triết lý hay khái quát nào xuất phát từ trái tim, gắn với “cây đời xanh tươi” thì mới có tính thuyết phục, tỷ dụ như Rồi ra đọc sách,
cấy cày/ Mẹ là đất nước tháng ngày của con; Mái gianh
ơi hỡi mái gianh/
Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương… Còn
khi Khoa dụng công triết lý, thì nhìn chung là có cái hằn nổi của xương cốt mà
thiếu cái tươi mát của da thịt.
Bài Về làng, Khoa viết nhân danh một người thương binh hỏng mắt có những câu cảm động,
song lại
kết rằng “Thế hệ anh đã sống một thời/ Xứng đáng để thế hệ sau
kiêu hãnh/ Vì thế em ơi/ Cuộc đời anh không hẳn là bất hạnh” thì quả thực“mỗi lời là một vận vào khó nghe”. Hay anh luận về sự vô thường của phận người khi thăm nghĩa trang Văn Điển, rồi lên giọng thống thiết: “Trước mắt ta là hàng hàng bia đá/ Con người ơi hãy thương lấy con người”
thì chẳng biết có ai mủi lòng vì lời
kêu gọi của anh mà sống tốt hơn không? Bài Đứng trước chùa giải oan cũng
có những câu triết lý tương tự: “Và chùa đứng như một người làm chứng/ Có
bao giờ giải được nỗi oan đâu/ Nên chùa vẫn còn đây màu ngói cũ/ Một màu hoang
từng xao động lòng người”. Tuy nhiên, mấy câu trong Matxcơva, mùa đông năm 1990 “Trái đất mỏng manh và đáng thương biết mấy/ Trước những mưu mô,
toan tính của con người” thì lại nghiệm. Những ngày này “thằng anh”,
cậy lớn, đang mang bom đạn dội lên đầu “thằng em”, nhỏ bé vì cái “tội” “chú” cứ
nghe lời “ai”, chứ không chịu nghe “anh”. Thế là hỗn. Anh phải thẳng tay dậy
bảo chú bằng một… “chiến dịch đặc biệt” (?).
Lại có lần Khoa tâm sự bằng thơ với anh mình - nhà
thơ Trần Nhuận Minh “Người bảo bác theo Đỗ/ Em phải học Lý thôi/ Bác đã bay
dưới đất/ Em đành đi trên giời”. Tôi thấy thơ Trần Nhuận Minh có phảng phất
ít nhiều cái nỗi đau đời của “thi Thánh” Đỗ Phủ khi nói về thân phận dân đen,
chứ không thấy cái hào sảng, thích thảng, phóng dật của thi tiên Lý Bạch ở thơ
Khoa, dù rằng anh có nói đến trăng, đến gió, kể cả việc “nào ta nâng cốc đi
anh...”. Cái “bầu trăng gió” mà khoa “quẩy” nhỏ bé, nhẹ nhàng, nhàn tản
quá. Nó chẳng những không có cái hào sảng của “Quân bất kiến: Hoàng Hà chi
thủy thiên thượng lai” đã đành, mà nó cũng không có cái cô đơn rợn ngợp của
“Cử bôi yêu minh nguyệt/ Đối ảnh thành tam nhân”. Mà thiển
nghĩ, việc gì Khoa cứ phải bóng gió so mình với những thi
Tiên, thi Thánh ở tận đẩu đâu, tự thời nào! Thần
đồng thơ nước Việt thiếu tự tin chăng?
Bài thơ “Gửi bác Trần Nhuận Minh” hàm chứa nhiều tâm
sự về đời và thơ của Trần Đăng Khoa. Cứ theo lẽ thường, khi nhìn lại đời thơ
mình thì nhẽ ra người thơ phải biết ơn, cảm tạ những giun dế, kiến vàng, chó
đen “Đã khiêng vác em lên”, cho Khoa tột đỉnh vinh quang. Thì giọng
thơ ở đây lại ỡm ờ, khụng khiệng như giễu cợt chúng. Còn đâu cái nâng niu, trừu
mến, trân trọng, thân ái, đầy chất
nhân văn, nhân hậu như trong Đánh thức trầu, Đám ma bác Giun,
Sao không về Vàng ơi, hay cái ung dung ngồi vuốt râu của chú Mèn họ nhà
Dế dưới bờ tre, bên ao trường. Thiển nghĩ, nếu “đọc” được những dòng này, thì
những sinh linh mang kiếp giun dế, kiến đen, chó vàng… sẽ buồn tủi như những
cung phi thời xưa một thời được quân vương sủng ái, nay bị bệ hạ bỏ rơi.
Lại nữa,“Giờ thì em đã chán/ Những vinh quang hão
huyền”, Khoa khiêm tốn hay tự kiêu? Nhưng, gợn nhất là câu kết “Thung
thăng em với bác/ Ta cưỡi thơ ra đồng”. Đây không phải là một thi ảnh đẹp,
nó chẳng tương xứng với Trần Đăng Khoa một chút nào. Tôi hình dung con trâu thơ
đẹp đẽ, thơ mộng của một thuở thần đồng sẽ phải oằn lưng, nhăn mặt chịu đựng
cái thân hình ục ịch của “Lão Khoa” hôm nay. Mục tử chăn thơ hào hoa đã thành
lão già cưỡi thơ thô kệch! Trong thơ, Khoa luôn mơ làm thợ cày, ước mình được cưỡi trâu ra đồng, song tôi thấy
trong đời thực thì Khoa chủ yếu là “cày” đường phố, chẳng phố Hà Nội, thì cũng
phố Moskva, New York, hay Boston, và nếu không “cưỡi” hai bánh thì cũng
là bốn bánh, hay vi vu lưng chừng trời.
Trong thơ, Khoa đã từng “một mình em đóng cả ba vai
chèo”, trong đời Khoa cũng sắm nhiều vai, kể cả làm “quan”, dù là “quan văn”.
Song, vai thi nhân là đạt nhất, ấn tượng nhất. Trên cánh đồng chữ nghĩa của
Khoa có vạt này vạt kia, thì vạt thơ là trĩu trịt nhất, những chùm đầu đời,
chín tới và chín sớm, là ngát hương, đậm vị hơn cả. Hành trình gần sáu chục năm
thơ Trần Đăng Khoa là một hành trình nhiều chặng, song vẫn nhất quán một giọng
thơ, dù ở mỗi chặng thơ có ít nhiều những biến đổi, nhấn nhá. Đó là giọng
thơ tưởng quen mà lạ, đơn thanh mà không đơn giản, có duyên mà không làm dáng,
sâu sắc trong cái sự hồn nhiên pha trộn giữa hiện thực đời sống với ca dao, đồng
dao, kể cả cổ tích, ngụ ngôn, thần thoại. Cái tôi trữ tình của Khoa là cái
tôi trữ tình công dân, chân chất, đằm sâu, dung dị, dạt dào tình người, tình
quê hương xứ sở, và mấp mé vươn tới cảm hứng sử thi, ít nhiều mang tính thời đại
nhà thơ sống.
Nếu bằng cái nhìn không - thời gian
nghệ thuật của các nhà lý luận mà xét, thì hành trình thơ Trần Đăng Khoa
nghiêng về cảm quan không gian hơn là thời gian. Trong hành trình ấy, tôi thấy Khoa tung hoành nhất, tự
tin nhất, là hành trình từ “sân” ra “vườn”, ra “ao”, rồi ra “đồng”. “Điền Trì”, cái làng chôn rau cắt rốn của Khoa
theo nghĩa Hán-Việt là “ruộng và ao”, thì trong thơ Khoa “ao” và “ruộng” cũng
lưu nhiều dấu vết hương hỏa. Ở khoảng không-thời gian quen thuộc đó, anh phát
huy mọi sở trường, thả sức phô diễn tài năng, vốn sống của mình, như anh đã
từng có lần viết về nhà thơ Nguyễn Đình Thi trong Chân dung và đối
thoại:“chân cứ thung thăng bước mà không sợ bị vướng vào câu, tay cứ tự do vung
mà không ngại bị va phải chữ”. Sau này ra đảo, sang Tây, làm quan có cái
hay, cái được, cái vinh, nhưng thiển nghĩ anh không thể có cáí sướng của “tỏa
hương ruộng đồng” cùng “niềm vui gieo trồng” thuở từ sân ra đồng.
Từ sân nhà ra đồng làng gồm nhiều “sân chơi” cùng đồng
hiện, thì ở sân nào tôi thấy thơ Khoa đều nổi lên một “nhân vật” trung tâm, sắm
vai “chủ trò”, gây ấn tượng mạnh. Ở trong sân là bạn vàng, ở góc vườn là bác
giun, ở ngoài ao là cá (lão cá ngão, cụ cá rô, cô cá diếc), ở ngoài đồng là con
trâu. Còn về con người, thì có ba nhân vật được khắc họa rõ nét và ấn tượng
nhất, là bé Giang, mẹ và bố. Bé giang là thần tiên nhất “phất phơ mái tóc/
Vương vương nụ cười”, mẹ là hy sinh nhất “nằng mưa từ những ngày xưa/
Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan”, bố là kỳ vĩ nhất “đội sấm/ đội chớp/
đội cả trời mưa.
Ấy là chưa nói đến những nhân vật có tên không tên,
tham gia vào cuộc chơi, là hoa, là chim, là cây, chị mây, cô gió, ông mặt trời,
bà mặt trăng…Chính những nhân vật này đã góp phần quan trọng làm nên cái gọi là
“không gian làng quê” đặc thù trong thơ Khoa. Nếu để ý, trong thơ Khoa cứ chỗ nào động đến quê, là rưng
rưng lay
động lòng người, kiểu như “bóng
cau vẫn ngả ngang vườn/ Lá tre gió vẫn thổi vương ngõ ngoài”. “Anh nghe
tơ mảnh tiếng côn trùng/ Gáy rụt rè trong bụi cỏ/ Trâu đủng đỉnh lắc sừng đi
qua ngõ/ Hơi sương tan trên rặng cúc tần/ Ánh chiều rơi vào khung cửa sổ rất
gần”...
Đọc lại Góc
sân và khoảng trời, tôi hụt hẫng trước“Thời gian vẫn đi lạnh lùng khắc
nghiệt/ Có kiệt tác hôm nay mai đã bẽ bàng rồi/ Bao thần tượng ta tôn thờ cung
kính/ Mưa nắng bào mòn còn trơ lõi đất thôi”, song rồi hồi tâm lại với “Cái
còn thì hãy còn nguyên/ Cái tan thì tưởng vững bền cũng tan”. Đúng thế. Gia
tài thơ Trần Đăng Khoa, cái gì gắn với máu thịt cuộc đời, là tiếng hát của tâm
hồn, là rung động của con tim, thì vẫn còn nguyên giá trị lâu bền. Còn những gì
mang tính thời cuộc, được người ta công kênh lên, hoặc “gà” cho, hay anh tự túm
tóc hòng nhấc mình lên, thì sẽ rơi rụng theo thời cuộc. Trong cuộc chạy marathon
thơ, Khoa không giữa đường bỏ cuộc song đã dần đuối sức so với chính mình, như
một quy luật nghiệt ngã trong sáng tác của nhiều nhà thơ tên tuổi khác. Thơ Việt
phải chăng đang trên ngưỡng cửa của sự đổi chặng, đang dò dẫm bẻ ghi sang một
“hệ hình thẩm mĩ khác”, với thế hệ bạn đọc khác và những nhà thẩm thơ khác? Vậy
nên, sau này Khoa ít viết thơ chuyển dần sang văn xuôi, phê bình, đăng đàn, làm
quản lý… cũng là phải lẽ.
Người ta yêu Khoa, sùng bái thơ Khoa không phải ở sự cách tân thi pháp, sự kỳ khu trong cấu
tứ, sự diệu vợi của tâm trạng, sự hoa mỹ của câu chữ, mà ở cái
sự “chân”: chân cảm. Trong văn chương nghệ thuật, “chân”
là gốc của “thiện”, của “mi”. Thiếu “chân” thì “thiện” và “mĩ” sẽ chẳng khác
nào kẻ “tiên thiên bất túc”. Anh là nhà thơ của nhân dân, của số đông. Bạn đọc tin
anh và anh cũng tin ở sự công tâm của bạn đọc. Sức sống thơ Trần Đăng Khoa có
thể lượng định được qua tần suất tái bản, có tập đến hơn trăm lần, một kỷ lục
thời nay dành cho thơ. Góc sân và khoảng trời cùng với vài trường ca
khác, hấp dẫn không chỉ cho trẻ con, mà cho cả người lớn. Ở đó, người quê, nhất
là trẻ quê, tìm thấy bóng dáng, vui buồn của mình. Nếu
thơ là tiếng lòng, tiếng vang ngân, cộng cảm từ tâm hồn một người đến tâm hồn
nhiều người, thì cha đẻ của Góc sân và khoảng trời ở tuồi chín mười đã
làm được như vậy. Khoa
đã như rỉ vào tai lũ trẻ rằng: thơ chẳng ở đâu xa. Cái hay, cái đẹp tàng ẩn
ngay ở mảnh sân, góc vườn, bờ ao nhà chúng, cánh đồng làng chúng. Chỉ cần một
bàn tay với lòng trong, tâm sáng, chan chứa tình người chạm đến, là nó sống dậy,
ngân lên. Nghe thế, biết thế, nhưng cứ thử đi, đừng có mà tưởng bở, thấy đỏ ngỡ
chín nhé!
Vì yêu quý Trần
Đăng Khoa, có người đã ước Khoa thế này, thế kia, tỷ
như gia tài thơ tình của anh dầy dẫn
hơn, giá như làng quê, đồng quê trong thơ anh
ngoài cái tươi đẹp, hồn hậu, đáng yêu, còn có cái nỗi sầu muộn, bi mẫn, u hoài muôn thuở, ẩn giấu sau những góc
khuất, mặt tối. Giá như anh nên sửa thơ ở chỗ này
mà không nên sửa ở chỗ kia, giá như anh
viết tiểu thuyết (mười tuổi Khoa đã thử sức mình ở vài tiểu thuyết mi-ni viết dở)… Song, họ
sẽ bớt đòi hỏi, nếu họ biết rằng người Pháp có câu, đại ý rằng: nếu mà giá được
thì người ta có thể bỏ cả Pa-ri vào một chiếc túi!
Thử mạo muội “xếp chiếu”, thì ở lĩnh vực thơ thiếu nhi, Trần
Đăng Khoa ngồi ở “chiếu nhất”. Ở lĩnh vực thơ chống Mỹ anh cũng ở khoảng “chiếu
nhì”. Anh còn ngồi chung chiếu với các nhà thơ thuộc “trường thơ Quê” thời Thơ
Mới mà không cần sự chiếu cố. Trong số các thi sĩ đương đại, anh là người hạnh
phúc nhất. Nổi tiếng dài dài, được cả danh và lợi, mà hình như không bị “đánh
đấm”, “lườm nguýt” gì. Nếu có thì đó cũng là cái sự... “yêu thì cho roi cho
vọt”, “giơ cao đánh sẽ”!
Trong hình dung
của tác giả những dòng lan
man, loằng ngoằng này, thì từ một thần đồng chăn kiến vầy giun ở góc
sân nhà, đến một mục đồng chăn thơ trên cánh đồng làng, Trần
Đăng Khoa đã như “Bạn nhỏ cưỡi trâu về ngõ/ Tự mình làm nên bức tranh”.
Trong đó, ẩn chứa chân dung của một thi nhân có
gương mặt thơ không trộn lẫn với ai, khó lặp lại trong nền thi ca đương
đại. Người đó, ở thời đó, đã có một mạch thơ
tuôn chảy của tiếng đàn bầu đêm trăng “mát
trong như suối đầu nguồn” với một
giọng thơ chót vót tiếng gà “trẻ như thời trời đất mới sinh ra”. Mạch
thơ, giọng thơ đó kết tinh nhiều tinh túy Việt, nhất là:
Có hương sen
thơm
Trong hồ nước
đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng cay
Thế mới là thơ.
Thế mới là Trần Đăng Khoa thần đồng nước Việt!
Cố viên, Hải
Thanh, đầu Đông, 2022
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét