CÓ MỘT TRẦN
QUANG QUÝ TRONG TRUYỆN NGẮN
Qua tập “ Niềm
vinh quang của làng”. Nhà xuất bản Dân trí, 2024
Vũ Nho
Bạn đọc đã biết đến nhà thơ Trần Quang
Quý tác giả của nhiều tập thơ, tập kí, tập
bình thơ. Anh là người sáng tạo ra thể thơ “namkau”, in cả tập thơ loại này, và hiện đang có câu lạc
bộ thơ “namkau” do nhà thơ Lôi Vũ làm Chủ nhiệm. Trước khi giã
từ cõi tạm, nhà thơ đã vượt qua bạo bệnh, cho ra mắt đồng thời trong quý 3 năm
2022 ba tập thơ Những sắc màu đa thức (
thơ namkau), Miền tỏa bóng và Những
nẻo người. Đây là những suy ngẫm, gửi gắm cho bạn đọc, cho đời những gì
mà một đời sáng tạo nhà thơ chiêm nghiệm.
Bất ngờ, năm 2024, chúng ta lại biết đến có một Trần Quang Quý trong truyện ngắn! Thật đáng khâm phục sức sáng tạo của nhà thơ tuổi Ất Mùi! ( Theo bìa tập truyện và Nhà văn việt nam hiện đại, TQQ sinh năm 1955, Ất Mùi. Nhà văn Y Mùi cho biết tuổi thực của nhà thơ là Giáp Ngọ, 1954).
Tập truyện gần 200 trang gồm 9 truyện
gần như đều là chuyện làng, chuyện gia đình, trong phố huyện, duy có một truyện “ Những đêm miệt vườn” viết
về người mẹ có con gái lấy chồng nước ngoài; và “Ngày phố” viết về ông lão nhà
quê ra thành phố với con trai. Nghĩa là các nhân vật, các sự kiện đều xảy ra ở
vùng quê, nơi tác giả sinh trưởng, gắn
bó máu thịt, dù sau này có ra thành phố nhưng vẫn đau đáu nhớ về.
Có thể thấy nhìn chung, truyện nào của
tác giả cũng có tình huống. Đấy là cách dựng truyện cổ điển thường thấy ở các
tác giả truyện ngắn Việt Nam.
“Dốc sung” mà không có cây sung nào,
chỉ có một rừng khế gắn với truyền thuyết
tướng Đinh Đẻn “ vừa đánh trận sung, vừa vượng gân cốt”, là tổ của ông Đinh
Đài, bố đẻ cô Voan. Con dốc ấy đã là nơi Voan gặp Phởn, và cô gái khỏe mạnh dân
dã ấy đã làm Phởn quên hết địa vị Viện trưởng Kiểm sát của mình. Anh ta không
quanh co, không chối cãi! “Người ta có thể cho là yếu đuối, là bị cám dỗ và sa
ngã, rất nhiều lời quy kết xấu xa sẽ còn tiếp tục, và vì vậy Phởn đã chọn cách
không được phép chối quanh” . Cặp đôi sống theo bản năng ấy đã viết một truyền
thuyết mới cho “ Dốc Sung”.
“Bờ sông trăng sáng” là mối tình tay
ba giữa chị Châu, Hoàng và Quân. Rồi Hoàng vào mặt trận và hi sinh. Quân trở về.
Nhưng trong làng xuất hiện Phó, tay buôn chuối. Bây giờ là bộ ba Châu, Quân,
Phó. Chị Châu quyết định lấy Phó, nhưng trước khi cưới, chị dâng hiến cho Quân!
Kết cục bất ngờ là án mạng mà Châu vô
tình thành nạn nhân,…
“Ngày
phố” là câu chuyện của vợ chồng lão nông rời làng ra phố ở với con
trai. Ở phố, nhưng lão vẫn nhớ quê, vẫn mơ về làng cũ. Để cho vợ chồng lão vui
nơi phố thị, cả nhà đã quyết định làm dự án vườn rau sân thượng. Những chuyện
khóc cười xảy ra với việc “chăm bón” khu
vườn.
“Bố vợ”
và “Khí
thơ” là chuyện ông cụ nhạc phụ của mấy chàng rể. Ông hăng hái kiện tay
chủ tịch xã vì việc chung. Kiện tụng không kết quả, nhà lại bị tay đó trù, cắt
bớt mấy sào đất. Nản, ông cụ chuyển sang làm tổ trưởng ban nhạc bát âm. Cụ tâm
sự với anh rể cả “ Buồn cười lắm bố cu ạ!
Hồi nọ, tôi đi tranh đấu, cũng vì làng vì xóm, chả mấy người coi trọng mình, lại
còn bị nó cắt ruộng. Bây giờ chỉ đi thổi kèn
đám ma, người ta xem ra lại tử tế, lại nể mình. Thế mới hay chứ lị”.
Cũng nhân vật
ông cụ đó trong “ Khí thơ”, cụ bỏ tổ nhạc bát âm chuyển sang làm thơ, thành lập Câu lạc
bộ thơ và bóng cửa. Anh con rể thứ hai -
Chủ tịch huyện rút hầu bao chi cho cụ một triệu. Còn anh thứ ba thì buồn hẳn vì
mất mối lợi tiền tươi thóc thật từ vị thế
tổ trưởng phường bát âm của cụ. Câu lạc bộ thơ Phúc Xuân nổi tiếng, cụ
chủ nhiệm mơ giải No-ben,…
“Đệ nhất tiểu hổ quán” là chuyện của
tay làm gạch chuyển sang kinh doanh quán thịt mèo. Góp vào quảng bá quán là các
vị nhạc sĩ Văn Tiền, nhà báo Ngọc Củ, nhà văn Đức Hòa. Chủ quán xây dựng trại
mèo thịt để có nguồn cung cho quán. Việc phất lên, đại gia nước ngoài muốn liên
doanh… Nhưng tất cả đổ bể vì quý tử nhà chủ quán đã ôm hết tiền bạc trong két bỏ
đi xa…
“Những đêm miệt vườn” là nỗi phấp phỏng
của người mẹ có con lấy chồng ngoại quốc. Bao nhiêu bỡ ngỡ, hồi hộp, lo lắng
cho cuộc lấy chồng của con gái. Và nỗi
buồn vui khi con gái trở về…
“Chủ tịch huyện cần trợ lý” cho thấy ý tưởng hay của chủ tịch. Song chỉ có ý tưởng,
mà không có thực tài, nên không thể sử dụng
những trợ lí giỏi từng làm việc với mình.
“Niềm vinh quang của làng” là câu
chuyện một người con của làng tưởng đã hi sinh, nhưng lại không chết và trở về với
tư cách là người anh hùng, đem lại cho làng quê
niềm vinh quang,…
Có thể nói tác giả đã đụng chạm đến rất
nhiều những vấn đề thực tế của đời sống xã hội thời kinh tế thị trường. Từ chuyện
kiện cáo tay kế toán trưởng, kiện tiếp
khi y lên chủ nhiệm, kiện tiếp khi hắn lên chủ tịch xã. Càng kiện thì hắn càng
lên chức, làm người kiện bị trả thù, nản chí ( truyện Bố vợ) , đến chuyện bầu bán bây giờ không thực chất
bởi việc chạy phiếu bầu : “ Bây giờ ấy à,
mỗi lần đại hội đại hè, bầu bán gì đó là chó làng sủa nhặng xị cả đêm. Có chuyện
gì mà lạ vậy? Các quan thậm thụt đi đêm, đi “chạy” phiếu bàu đấy.” ( truyện
Ngày
phố) ; “Thiên hạ cứ xì xào rằng ở
đâu bây giờ cũng phải ‘chạy” hết. mà không chỉ chạy vài “vé” đâu nhá. Nhiều chục
ngàn đô cơ đấy. Chức càng to, ở chỗ nhiều
bổng lộc, nhiều quyền lực thì “măn ni” càng phải dồi dào” ( Ngày
phố). Từ chuyện công nghệ băng
hình của tay Phó làm náo động làng quê : “một
cái máy phát điện chạy xăng phành phạch suốt ngày. Các phim trường hò hét , đấm
đá loạn xì ngầu. Trẻ con xem đông hơn đi
hội. Vài hôm, trên đường làng đã có những cuộc
“thử găng” hộc máu mồm bằng thế trưởng học lỏm ở video của Phó. Than ôi,
nền công nghiệp băng hình đã thăng hoa ở cái làng ba bề sông của tôi” ( Bờ
sông trăng sáng), đến chuyện thành phố, trong mắt lão An cũng thật thật
kì, chả có gì hay ho, ghê gớm : “Hà
Nội trong mắt lão láo nháo, bụi bẩn, dây dợ, điện đóm chạy lằng nhằng như mạng
nhện. Trông khiếp! Ở đây lắm bọn du thủ du thực, trộm cắp, tranh ăn tranh ở…Chao
ôi là cái tệ nạn! Bao cao su, ống kim tiêm vứt la liệt quanh gốc cây xà cừ bên
ngoài nhà con trai lão suốt đêm” ( Ngày phố).
Từ chuyện ma chay ăn uống ngày càng to ở thôn quê “ Đám tang nào mà chả cần thịt. Có nhà, ba
ngày tang gia xơi hết mấy lợn. Đám ma đám cưới bây giờ đều ăn to cả. Chả là
nông thôn còn nặng thói “ gà tức nhau tiếng gáy” . Chén đã, chén cho oai với
làng nước đã, rồi chắt bóp, cày cuốc, đóng gạch, giật nóng, vay lãi láng giềng,
họ mạc, trả nợ lần hồi sau”. đến chuyện “ Chỉ béo mấy ông cò sách, mấy ông Trung ương câu lạc bộ thơ Việt quốc
gia “vặt lông” các cụ bằng đủ các loại in thẻ, in sách có đủ chân dung, tiểu sử
cho các cụ thành thi nhân nước ta cả” ( Khí thơ), rồi đến chuyện
Chủ tịch huyện cần trợ lí để khai thác chất xám, nhưng vốn sợ vợ, vốn sĩ diện
hão nên đã bỏ qua không dùng được những trợ lí có năng lực, mà dùng tay trợ
lí bốc đồng, hỏng việc . “ Ông bực lắm
nhưng chỉ dám chửi thầm trợ lí là dốt. Không chửi to được vì chính ông đã hết lời
khen nó nghĩ trúng ý ông kia mà” ( Chủ tịch huyện cần trợ lí).
Với các truyện được viết theo lối truyền thống,
có tình huống để câu chuyện phát triển, nhưng cách kể chuyện, điểm nhìn
trần thuật luôn thay đổi, giọng điệu khi
khách quan, lúc hài hước, khi tếu táo làm cho các truyện có sức hấp dẫn, lôi cuốn
riêng. Đó là năng lực, bản lĩnh của người
viết giàu vốn sống thực tế, giàu trải nghiệm đời sống.
Chín truyện trong tập, nhà thơ Trần Quang Quý đã khai thác một thể loại khác thơ, búy kí, bình
thơ. Truyện ngắn tuy xuất hiện lần đầu nhưng có thể khẳng định
chắc chắn có một Trần Quang Quý
trong lĩnh vực này. Với một cách dựng
truyện, một cách kể và một cách tiếp cận uyển chuyển, mềm dẻo đối với thực tế đời
sống, nhà thơ đã ghi dấu ấn sáng tạo của
riêng mình.
Hà Nội
26 tháng 7 năm 2024
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét