Thứ Sáu, 18 tháng 9, 2020

Người đời sau làm méo mó "Truyện Kiều"?

  1.  

    Người đời sau làm méo mó "Truyện Kiều"?

    Từ khi sinh thành cách đây 180 năm, Truyện Kiều đã trở thành tác phẩm văn học thẩm thấu vào tâm trí người Việt với biết bao dạng thức như ngâm Kiều, bói Kiều, lẩy Kiều…

    Truyện Kiều cũng là một tác phẩm văn học kiệt xuất của dân tộc Việt Nam trên diễn đàn văn hóa thế giới. Bản thân tác giả của Truyện Kiều là đại thi hào Nguyễn Du cũng trở thành Danh nhân văn hóa thế giới. Thế nhưng, nhiều ý nghĩa của tác phẩm này đã bị hậu thế hiểu sai đi hoặc làm “méo mó” không chỉ một lần.

    Vua Tự Đức “sửa” Truyện Kiều

    Nhiều tài liệu viết rằng, sau khi Nguyễn Du viết xong Truyện Kiều, bạn hữu của ông đọc rồi đem khắc bản gỗ và bán tại các cửa hàng sách. Sau đó, người ta thêm, bớt, sửa chữa và lại đem khắc in.

    [​IMG]
    Tượng đài thi hào Nguyễn Du

    Chẳng hạn, trong bài tựa Đoạn trường tân thanh, ông Đào Nguyên Phổ, một vị quan nhà Nguyễn, viết rằng: “Mùa Hè năm Mậu Tuất 1898, tôi ở Kinh về vinh quy, có đem quyển Truyện Kiều ấy biếu ông Kiều Oánh Mậu. Ông Kiều Oánh Mậu đã theo bản Kinh ấy mà tham khảo, chép theo một số chữ và còn ghi thêm những câu của bản Kinh khác với bản Phường…”.

    Vị quan họ Đào này viết tiếp: “Truyện giai nhân diễn thành giai tác, lại đượm hương trời càng là thêm vẻ, nên chi người ngâm vịnh quý hơn được ngọc bích, tranh nhau sao chép đến nỗi giá giấy đắt như giấy quý Lạc Đô”. Như vậy, Truyện Kiều đã không còn nguyên bản như Nguyễn Du viết. Bởi ngoài nguyên bản của Nguyễn Du còn có bản Phường của Phạm Quý Thích, bản Kinh do vua Tự Đức sửa chữa mà thành và nhiều bản quốc ngữ khác nhau.

    Vua Tự Đức “mê” Truyện Kiều. Điều này đã được dân gian vì von: Mê gì? Mê đánh tổ tôm/Mê ngựa hộ bổn, mê nôm Thúy Kiều. Và tuy là người hay bắt bẻ nhưng đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, Tự Đức cũng phải công nhận đúng là “hàng hàng châu ngọc lời lời gấm thêu”. Có giai thoại rằng, sau khi đọc Truyện Kiều, vua Tự Đức bỗng dưng đùng đùng nổi giận: “Nếu Tố Như (tên tự của Nguyễn Du) mà còn sống, phải nọc nằm xuống đánh cho 30 roi!”.

    Bởi khi viết về Từ Hải, Nguyễn Du đã viết: “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!”, đó là hình ảnh của Nguyễn Huệ ngày xưa trong liên tưởng của Tự Đức. Bởi qua thơ, vua Tự Đức thường xét lập trường chính trị của tác giả. Còn một điều nữa là vua Tự Đức tên là Nguyễn Phúc Thì. Nhưng trong Truyện Kiều chỗ nào có chữ “Thì” thường là xấu xa bỉ ổi: “Khi thì lừa đảo, nơi thì ai thương?” (2.291), “Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng” (1.729), “Thôi đà mắc lận thì thôi đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh” (1.157).

    Đặc biệt, câu: Thì con người ấy ai cầu làm chi đã được ngắt thành: “Thì/con người ấy/ai cầu làm chi” và được hiểu theo nghĩa: “Một con người như Tự Đức thì chẳng ai cầu làm gì!”. Như vậy là Nguyễn Du đã mắc vào tội vừa phạm húy, vừa phạm thượng, một tội rất nặng trong chế độ phong kiến! Cũng may là Nguyễn Du đã mất và vua Tự Đức cũng cảm phục tài ông nên chỉ tức giận vài câu mà thôi.

    Kiều thành Phật bà nghìn tay nghìn mắt?

    Tháng 2.2012, vở kịch Nguyễn Du với Kiều do NSND Lan Hương đạo diễn và dàn dựng được công diễn. Nhiều sáng tạo và đột phá của vở kịch được khán giả đón nhận nhưng cái kết với hình ảnh nàng Thúy Kiều hóa thân thành Phật bà nghìn mắt nghìn tay khiến dư luận khó đồng tình.

    [​IMG]
    Thúy Kiều thành Phật bà nghìn tay nghìn mắt

    NSND Lan Hương lý giải: “Kiều là người kiếp này tu và kiếp sau sẽ tu tiếp. Ý tứ tôi đưa ra chỉ muốn nói Kiều sẽ đi lên trong vòng tay che chở của Đức Phật bởi ngài là người hiếu thấu trái tim nhân hậu, trong sáng và quá đỗi nhân ái của Kiều”.

    Việc Thúy Kiều được thành Phật bà là một điều không thể xảy ra. Đọc kỹ đoạn kết Truyện Kiều chúng ta sẽ thấy rõ hơn về điều này. Đến cuối cùng Kiều vẫn chưa thoát khỏi phong trần. Bởi câu 3.243 - 3.244 của Truyện Kiều cũng là: Bắt phong trần phải phong trần/Cho thanh cao mới được phần thanh cao. Kiều đến cuối cùng vẫn phải sống ở chốn hồng trần, vẫn phải kết hôn với Kim Trọng chứ không thể “thanh y” để trở thành Phật được.

    Kể cả đại thi hào Nguyễn Du cũng không muốn Thúy Kiều trở thành tiên thành Phật. Trong câu kế cuối của Truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết rằng: “Thiện tâm ở tại lòng ta”. Như vậy Nguyễn Du có muốn Kiều thành Phật đâu!

    Chữ “trinh” bị hậu thế hiểu sai

    Đề thi của Đại học FPT ngày 8/4/2012 có nội dung để thí sinh bàn về chữ “trinh” xưa và nay với những câu trong Truyện Kiều làm dẫn chứng. Tuy nhiên, sự khập khiễng về logic đã khiến đề thi trở thành câu chuyện “râu ông nọ cắm cằm bà kia” và “đầu voi, đuôi chuột” khá khôi hài. Bởi lẽ chữ “trinh” trong Truyện Kiều không phải là việc “Ngày xưa, nếu cô dâu bị mất trinh thì coi như mất hết, hôn nhân đổ vỡ, người vợ bị đem trả lại” như người ra đề khẳng định.

    Cá nhân người viết cũng “thông cảm” cho người ra đề. Bởi cách hiểu của người ra đề được đặt trong bối cảnh xã hội và dân gian còn nặng cách hiểu một chiều. Như: “Gái khôn tránh khỏi đò đưa, Trai khôn tránh khỏi vợ thừa người ta!".

    Nhưng chữ “trinh” của Truyện Kiều lại là quan niệm riêng của Nguyễn Du thông sự bày tỏ quan điểm của các nhân vật. Đặc biệt là quan điểm của hai nhân vật Thúy Kiều và Kim Trọng. Với Thúy Kiều, lúc yêu Kim Trọng, nàng đã dám trèo tường sang người yêu để gặp người yêu nhưng vẫn:

    “Thưa rằng đừng lấy làm chơi,



    Đã cho vào bậc Bố-kinh,

    Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.

    Ra tuồng trên Bộc trong dâu,

    Thì con người ấy ai cầu làm chi!”.

    (câu 499 - 508).

    Sau này, mặc dù bị sa vào chốn bùn nhơ nhưng cuộc đời đó không do ý muốn của Thúy Kiều. Và khi trở về với gia đình sau 15 năm lưu lạc hồng trần thì món quà tiết hạnh cao quý còn lại mà nàng muốn dâng hiến cho Kim Trọng để chu toàn cho cả hai lại là chữ “hiếu” và chữ “tình”:

    “Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng

    Hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương

    Chữ trinh đáng giá nghìn vàng

    Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa”.

    (câu 3.093 - 3.096).

    Vì thế, đối với Kim Trọng thì chữ “trinh” của Kiều chính là:

    “Xưa nay trong đạo đàn bà,

    Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường.

    Có khi biến có khi thường,

    Có quyền nào phải một đường chấp kinh.

    Như nàng lấy hiếu làm trinh,

    Bụi nào cho đục được mình ấy vay?”.



    “Gương trong chẳng chút bụi trần,

    Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm”.

    (câu 3.115 - 3.122).

    Như vậy, thi hào Nguyễn Du, qua vai trò Kim Trọng, một đại diện điển hình của chế độ phụ quyền phong kiến (nho sĩ, quan lại) đã làm một cuộc cách mạng về tư tưởng và đem lại giá trị sống cho phụ nữ, không còn xem việc trai tơ lấy gái mất “cái màng trinh” là xấu nữa.

    Chữ “trinh” của người xưa vì thế cũng không hẳn là còn trinh theo nghĩa xác thịt như Đại học FPT đã nhầm lẫn trong đề Văn ngày 8/4/2012.

    Truyện Kiều còn, tiếng ta còn…

    Thời gian gần đây, chuyện ông Đỗ Minh Xuân, một kỹ sư, đã sửa hơn 1.000 chỗ trong 3.254 câu Truyện Kiều, nghĩa là đã làm méo mó đi 1/3 kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du đã khiến dư luận bàng hoàng. Lý do ông Xuân đưa ra là người đọc Truyện Kiều ngày nay có rào cản về điển tích, từ Hán, từ cổ, từ địa phương. Trong khi đó chữ nghĩa của Truyện Kiều lại rườm rà, trùng lặp, không hay, thiếu logic, trái văn cảnh… nên ông sửa lại cho phù hợp (?).

    Nguyễn Du tự nhận về “đứa con tinh thần” của mình là những “lời quê”, “chắp nhặt”, “dông dài”, chỉ là để “mua vui”. Nhưng 3.255 câu Kiều đã thành công vượt bậc hơn cả nguyên bản của nó từ Trung Quốc.

    Truyện Kiều cũng đã góp phần đưa tác giả của nó thành một đại thi hào của thế giới. “Mua vui” như vậy mới đáng mặt bậc thi sĩ nước Nam. Chỉ mong sao hậu thế về sau đừng có ai như ông Đỗ Minh Xuân làm “méo mó” thêm Truyện Kiều nữa. Bởi những việc làm này rõ ràng là hạ thấp giá trị tác phẩm văn học đã được xem là kiệt xuất của dân tộc Việt Nam trên bản đồ định vị giá trị văn hóa của thế giới.

    Theo Nguyễn Văn Toàn (Thể thao & Văn hoá)
     
  2. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Mỗi từ, mỗi câu trong Truyện Kiều là mỗi viên ngọc long lanh trong kho tàng ngôn ngữ và văn chương Việt Nam, điều đó có lẽ không cần phải bàn. Nhưng nay có lẽ phải bàn lại vì có người… chê dở, và đã sửa tới 1/3 tác phẩm!

    “Trăm năm trong cõi người ta
    Chữ Tài, chữ Mệnh khéo là ghét nhau
    Trải qua mỗi cuộc bể dâu
    Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
    Mỗi người thứ có thứ không
    Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen…”

    Đọc những câu thơ trên, ắt hẳn người ta sẽ nghĩ: “Sao mang máng như Truyện Kiều, mà sao hình như không phải Truyện Kiều?

    [​IMG]
    Ngôn từ Truyện Kiều đang bị người ta dùng bạo lực can thiệp!

    1/3 kiệt tác bị sửa!

    Vâng, nói sao cũng đúng. Là Truyện Kiều cũng đúng, bởi cái gốc là đại thi hào Nguyễn Du viết ra. Nhưng nói không phải Truyện Kiều cũng không sai, vì nó đã được/bị ông Đỗ Minh Xuân, một kỹ sư, sửa đi rồi.

    Ngay những câu đầu tiên mở đầu kiệt tác, đã bị ông Đỗ Minh Xuân chọc bút vào. Một câu ông sửa một từ (Trải qua mỗi cuộc bể dâu); còn một câu ông thay đổi hoàn toàn. Chắc chắn những người đã thuộc câu thơ lấp lánh ánh ngọc “Lạ gì bỉ sắc tư phong” của đại thi hào, nay trở thành “Mỗi người thứ có thứ không”, có lẽ không thể nào không bị… sốc phản vệ!

    Chuyện cứ tưởng như đùa nhưng lại là có thật 100% ở xứ ta! Xin đừng nóng vội, “dẽ cho thưa hết một lời đã nao” (Kiều - Nguyễn Du). Đó là trong cuộc hội thảo Dòng chảy văn hóa xứ Nghệ - Từ Truyện Kiều đến phong trào Thơ mới, tổ chức vào ngày 15/12/2012 tại khu di tích Nguyễn Du (Hà Tĩnh), mỗi đại biểu tham dự được phát một cuốn sách (bản photo) có nhan đề Truyện Kiều Nguyễn Du với tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng và trong sáng, do Đỗ Minh Xuân khảo dịch - NXB Văn hóa - Thông tin in năm 2012.

    Ông Đỗ Minh Xuân, được biết là một kỹ sư. Không rõ kỹ sư gì, nhưng thông thường danh từ này dành cho giới kỹ thuật, khoa học tự nhiên. Thế nhưng ông đã “dày công nghiên cứu, nghiền ngẫm, đối chiếu, so sánh…”, và ông đã sửa hơn 1.000 chỗ trong Truyện Kiều như thế. Cứ cho là mỗi đơn vị sửa sẽ rơi vào 1 câu, thì với Truyện Kiều 3.524 câu, ông Xuân đã sửa đến 1/3 kiệt tác của đại thi hào!

    Thật là ngạc nhiên, chưa nói là việc này có giúp làm cho tác phẩm hay hơn hay dở hơn, thì việc sửa tác phẩm của người khác là điều xưa nay chưa bao giờ có trong giới văn chương và kể cả các lĩnh vực học thuật khác. Trước hết, bởi quyền tác giả và trí tuệ của tác giả đã bị xâm phạm.

    Lý do ông Xuân đưa ra là, vì người đọc Truyện Kiều ngày nay, không còn thịnh như trước đây do rào cản về điển tích, từ Hán, từ cổ, từ địa phương…, trong khi đó chữ nghĩa của Truyện Kiều lại rườm rà, trùng lặp, không hay, thiếu logic, trái văn cảnh…, nên ông sửa lại cho phù hợp!

    Cười đến… dào mạch Tương!

    Nói vòng vo không bằng chỉ ra trực diện. Ngoài câu mở đầu “Lạ gì bỉ sắc tư phong” lấp lánh ánh văn chương đã bị hãm hiếp bởi câu “Mỗi người thứ có thứ không” đầy cục súc, thì hàng loạt câu, từ, điển cố điển tích… đã bị ông kỹ sư này ra tay sát hại không thương tiếc. Chiếc cầu Lam, được gọi là “Lam kiều” một cách thướt tha sang trọng trong câu “Xăm xăm đè nẻo Lam kiều lần sang”, được ông thay bằng từ “đánh liều”, thì quả thật không có sự… liều mạng nào bằng!

    “Thời trân” thì sửa thành “quả ngon”, “sẵn bày” thành “xách tay”, nên câu thơ miêu tả hành động của Thúy Kiều, một người con gái khuê các với mỗi động tác đều dịu dàng thanh nhã, cao sang “Thời trân thức thức sẵn bày”, thành ra một hành động dung tục “Quả ngon thức thức xách tay”! Nghe cứ như là nàng Kiều đang ăn trộm trái cây nhà mình cho vào giỏ rồi lén lút mang sang cho tình lang Kim Trọng!

    [​IMG]
    Trộm nghe thơm nức hương lân,
    "Buồng đào nơi tạm khóa Xuân hai Kiều"! (Đỗ Minh Xuân)

    Nhưng chưa! Điều đáng sợ là ông Xuân… sợ điển cố điển tích, nên cứ gặp điển cố là ông cố tình gạt ra và thay vào đó là thứ từ ngữ dung tục của ông! Cái đài Đồng Tước mà Tào Tháo xây lên để tính vui thú với 2 nàng con gái sắc nước hương trời Đại Kiều và Tiểu Kiều - vợ của Tôn Sách và Chu Du - hiện lên trong câu thơ của đại thi hào một cách nên thơ, đẹp đẽ và sang trọng:

    Trộm nghe thơm nức hương lân
    Một nền Đồng Tước khóa Xuân hai Kiều”
    đã bị ông Xuân hô biến thành “Buồng đào nơi tạm khóa Xuân hai Kiều”, nghe cứ như là cái buồng tạm giam tội phạm hình sự!

    Không thể nào nói hết cái ngô nghê, ngớ ngẩn với hành động “sát phạt điển cố” đến kỳ dị của ông kỹ sư. Trong đêm gió mát trăng thanh, lửa tình nồng nàn, chàng thư sinh Kim Trọng cũng muốn thụ hưởng cái thơm tho của xác thịt người con gái đẹp như hương như hoa. Để giữ tiết trinh, nàng Kiều đã dẫn chuyện của cặp đôi Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy trong “Tây Sương ký”. Cặp đôi này vì quá yêu nhau mà đã ăn nằm với nhau trước khi thành hôn, để rồi sau đó chán nhau, bỏ nhau, khiến người đời sau cứ tiếc mãi cho đôi trai tài gái sắc mà không thành duyên giai ngẫu:

    “Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay
    Lứa đôi ai dễ đẹp tày Thôi – Trương
    Mây mưa đánh đổ đá vàng
    Quá chiều nên đã chán chường yến anh
    Trong khi chắp cánh liền cành
    Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên
    Mái Tây để lạnh hương nguyền
    Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng…”

    Ấy thế nhưng ông Xuân sẵn sàng chém ngay cái điển cố:

    “Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay
    Lứa đôi từng thấy những ngày trái ngang”!
    Nàng Kiều thông minh tuyệt đỉnh đã lấy truyện "Tây Sương ký" để thuyết phục Kim Trọng. Như vậy Kim Trọng mới thực sự bị thuyết phục và “Thấy lời đoan chính dễ nghe / Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân”. Còn nay, khi ông Xuân cắt quách đi cái điển cố văn học này, thì có nghĩa những lời Kiều nói chỉ là lý luận suông của nàng. Thử hỏi trong đêm gió mát trăng thanh, người yêu như hoa như ngọc, rượu đã ngấm, tình đã nồng, có ông thánh nào chịu chấp nhận những lời lý lẽ suông của người yêu như vậy không?

    Lệch lạc, ngớ ngẩn, sai kiến thức, quy chụp… là những thứ nhan nhản trong “bản sửa” của ông kỹ sư. Vua Thuấn đi tuần thú sông Tương và chết, hai người vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm, và ngồi bên bờ sông khóc, rồi trầm mình tự vẫn. Từ đó “mạch Tương”, “giọt Tương” chỉ giọt nước mắt, là khóc. Thúy Kiều khóc cho thân phận mình: “Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương”. Ấy thế nhưng ông kỹ sư ngang nhiên sửa thành “trời đã sáng”: “Chưa xong điều nghĩ đã chào vừng dương”!

    Than ôi, còn sự hàm hồ nào bằng!

    Còn nhiều, nhiều lắm, vô kể. Thiếp Lan Đình thì gọi là “thiếp xem tình” (?), Lãm Thúy (có lý giải đây là danh từ riêng) đổi thành “kiểu dáng”; “đỉnh Giáp, non Thần” ngụ ý chuyện nam nữ mây mưa thì bị cưỡng hiếp đổi thành “tiên nữ giáng trần”, Chung (Tử) Kỳ - danh từ riêng, một người nghe đàn giỏi - được biến thành “ngưỡng vì”, lạ hoắc chẳng ăn nhập gì với nhau!...

    Đọc những câu từ được ông kỹ sư sửa lại, người ta không khỏi ôm bụng mà cười! Thế nhưng, cười nhưng mà đau xót. Cười nhưng mà không thể không… dào mạch Tương, tức không thể không khóc! Không thể nào nghĩ ra được rằng, người ta có thể dám ngang nhiên mạo phạm văn chương, mạo phạm tiền nhân đến như vậy! Nhà thơ Nguyễn Quang Thân gọi hành động này là “vô đạo”, còn ông Thế Anh, trên tạp chí “Thơ” của Hội Nhà văn Việt Nam, gọi việc làm, hành động này là “vô lối”, “hỗn hào”; có người nói đây là hành động bất kính, người thì cho là hành động phản văn hóa, phản văn chương.

    [​IMG]
    Hiện nay Truyện Kiều có quá nhiều dị bản. Người ta cố giữ những bản Kiều cổ vì muốn tìm về đúng nguyên bản của nó.

    Được cổ xúy bởi nhà nghiên cứu văn hóa lừng danh!

    Cứ như vậy, đến hơn 1.000 chỗ sửa, 1/3 tác phẩm chứ không phải ít ỏi, tức gần như bất cứ chỗ nào trong Truyện Kiều, cũng bị ông kỹ sư cắt xé, bức tử!

    Điều đáng nói là, việc sửa thơ này của ông kỹ sư lại nhận được cổ xúy của một bậc giáo sư lừng danh: Anh hùng lao động, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, Giáo sư Đặng Vũ Khiêu!

    Người ta đã kinh ngạc với hành động của ông kỹ sư, thì lại càng kinh hãi hơn khi biết rằng, hành động này được một bậc danh tiếng, “đức cao vọng trọng” trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa khuyến khích và tán dương! Quả thật giới văn chương và học thuật không khỏi ngỡ ngàng rồi kinh sợ, khi đọc những dòng đề tựa của vị giáo sư này:

    Với một tinh thần khoa học rất nghiêm túc, ông tìm lại hầu hết các bản Truyện Kiều từ trước đến nay, so sánh các dị bản, ông tìm đọc hầu hết các bài đã bình luận, phân tích tác phẩm và tác giả Truyện Kiều. Từ đó, ông đã có ý tưởng lớn là làm thế nào để phổ cập hóa Truyện Kiều cho quảng đại công chúng, ông gạt bỏ những câu chữ khó hiểu từ tiếng Hán để thay bằng ngôn ngữ thuần Việt trong Truyện Kiều… Tôi hoan nghênh công phu nghiên cứu của ông Đỗ Minh Xuân và tin rằng cuốn sách này của ông là một đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Truyện Kiều…”

    Chính vì vậy chả trách tại sao, cứ mỗi chỗ sửa, ông Xuân tự khen là hay hơn cả chữ của Nguyễn Du, đến nỗi còn nói nếu cụ Nguyễn Tiên Điền mà sống dậy thì ắt phải thốt lên “hậu sinh khả úy”!

    Quả thật đây là lối nói hàm hồ! Ngày nay, người ta dùng Truyện Kiều để bói, còn gọi “bói Kiều”. Điều này không phải do nàng Kiều linh thiêng linh ứng, mà bởi chính vì tác phẩm của đại thi hào quá súc tích, nó đã chứa đựng tất cả mọi mặt của cuộc sống, của đời người trong đó. Đồng thời, cũng có nghĩa bất cứ người dân nào cũng biết Truyện Kiều, chứ không phải như ông Xuân nói là ít người đọc.

    Còn việc hiểu, thẩm thấu, phải nói Truyện Kiều là một hiện tượng đặc biệt: Ngôn ngữ Truyện Kiều là thứ ngôn ngữ văn chương bác học nhưng diễn đạt lại rất giản dị, khiến mọi người, tất cả những ai, khi đọc đều hiểu. Người học ít thì hiểu theo mức của người học ít, người học cao thì hiểu theo cách của người học cao, còn người không biết chữ cũng hiểu được, theo cách của người không biết chữ. Chẳng vì thế mà ông bà ta xưa, dù không biết đọc chữ Nôm, vẫn thuộc làu làu 3.524 câu một mạch không vấp. Thậm chí có người mê Truyện Kiều đến mức, thuộc và đọc ngược nguyên tác phẩm! Thậm chí, dân gian còn thạo Truyện Kiều đến mức còn tập Kiều, vịnh Kiều, đố Kiều... Biết bao nhiêu là hoạt động phong phú, thể hiện dân ta đâu có... dốt Kiều, như ông Xuân nói.

    Sở dĩ, trong văn học Việt Nam, chúng ta có một khối lượng đồ sộ tác phẩm, bài viết, công trình nghiên cứu Truyện Kiều, cũng bởi độ uyên bác, thâm sâu của tác phẩm này, mà tất cả đều nằm trong văn chương, ngôn từ của tác phẩm. Vậy thì, khi ông Xuân làm một cái việc là "làm cho dễ hiểu", thì có còn gì là cái bản thể, cái tinh hoa của Truyện Kiều nữa!
    Phải nói, ngôn ngữ trong Truyện Kiều cô đọng, súc tích, thâm sâu đến mức, cố học giả Đào Duy Anh đã phải viết một cuốn "Từ điển Truyện Kiều", giải nghĩa từng từ một theo nội dung tác phẩm. Như vậy, khi ông Xuân kỹ sư dùng bạo lực can thiệp vào Truyện Kiều thế này, thì có nghĩa công trình của ông Đào Duy Anh đành phải... vứt sọt rác?

    Cách đây gần trăm năm, Phạm Quỳnh, cố học giả, nhà báo, nhà văn, đã viết: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn…”. Một thời quan điểm của học giả Phạm Quỳnh bị ta chỉ trích kịch liệt. Nhưng đến giờ, ngẫm lại câu nói của ông vẫn cứ nguyên giá trị.

    Nhưng, nếu vậy thì hiện “tiếng ta” có lẽ bị lung lay bởi việc làm ngông cuồng của một ông kỹ sư! Bởi những viên ngọc long lanh trong Truyện Kiều đang bị chà đạp bằng một thứ ngôn ngữ cục súc, mà được giáo sư Vũ Khiêu cho là kết quả của một một việc làm “với một tinh thần rất khoa học và nghiêm túc”, để thực hiện một “ý tưởng lớn”! Nếu thứ sản phẩm của trí óc điên loạn này mà đem phổ biến ra, tức là thực sự Truyện Kiều đã mất! Mà, cứ tam đoạn luận theo kiểu Đề-các, thì “Truyện Kiều còn – tiếng ta còn”, nên Truyện Kiều mất thì tiếng ta… còn đâu! Rồi “tam đoạn luận” nữa: Tiếng ta mất thì nước ta… Hỡi ôi! Nghĩ đến đây thấy giật mình, không dám nghĩ tiếp nữa! Sợ quá!

    Theo Đặng Vỹ (Đời sống & Pháp luật)
     
    Chỉnh sửa cuối: 8/12/15

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét