MỘT NGƯỜI ĐA CẢM ĐA MANG
Về tập thơ “Thấp
thỏm quê” của Bùi Thị Hạnh, Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2019
Vũ Nho
Cô giáo môn Ngữ văn Bùi Thị Hạnh, Hội
viên Hội Nhà văn Hà Nội sinh trưởng ở Hà Nội. Tập thơ “Thấp thỏm quê” là tập
thơ thứ ba của nhà giáo đa cảm, đa mang. Đa cảm vì kể từ khi cầm bút viết bài thơ “Hoa tình đầu”,
cũng là tên tập thơ đầu, cô giáo trẻ ấy đã yêu
bằng một tình yêu thủy chung bền bỉ dù có vẻ
đơn phương, vô vọng:
Mình em đi khắp muôn
phương
Vớt câu hát cũ lời thương ngày nào
[…]
Yêu chi yêu suốt một
đời
Chỉ mong người nói một lời trăng suông
Ngó sen rời vẫn tơ vương
Ngàn năm Ngâu lã chã thương tình đầu
Đa mang vì “thấp thỏm
quê” là trạng thái không yên lòng, luôn lo lắng, hồi hộp, bất an đối với quê. Mà quê, thì không phải “mỗi người chỉ một” như nhiều người. Quê với người làm thơ là
thành phố Hà Nội , nơi sinh trưởng, lại còn là quê cha ở Hà Nam, quê mẹ ở Kiến An, Hải Phòng. Một
tấm lòng thấp thỏm ba quê! Hơn nưã, khi ở Việt Nam thì Hà Nội, Hải Phòng, Hà
Nam là quê, còn khi ra nước ngoài nhìn về thì Việt Nam là đất nước, là quê hương, quê Việt. Khi ấy thì
miền Trung, Cà Mau, Cần Thơ hay Hà Giang, Yên Bái cũng là quê Việt, cũng là niềm
thấp thỏm của người viết!
Với quê mẹ An Lão, người viết “bao đêm thấp thỏm xa xôi” với người quê “Tảo tần chan gió gội mưa”:
Người quê chân đất áo
sồng
Phù sa lắng đọng dòng sông nên mùa
Ngón chân tõe đỏ mặn chua
Mồ hôi bạc cả gió lùa sương đông
Xâu cua cõng nặng cánh đồng
Cái tôm, cái cáy phập phồng đói no
(Thấp thỏm quê)
Thật nồng nàn, da diết.
Đó là những câu thơ mộc mạc nhưng thấm đẫm tình của người hiểu quê, yêu quê đến
thắt lòng.
Quê mẹ còn trở đi trở lại trong các bài thơ “Mẹ tôi”, “Giỗ mẹ ở Anh quốc”, “Về quê”:
Nước người
gió trước gió sau
Ngọn nào gió quẩn hàng cau mẹ
về
Dâng xôi lúa, miến dong quê
Thoảng hương ngô nếp triền đê
làng mình
(Giỗ mẹ ở Anh quốc)
Cái làng quê nghèo “Lúa non ướp hương đồng lên vời vợi/ Quả chay mớ tép thơm suốt tuổi thơ”
theo người viết suốt đời
thành “mảnh hồn quê”:
Lạc lối áo
cơm bên kia dốc đời
Giật mình vì kèo tắc kè nấc cạn
Ta nhặt những mảnh nấc gãy vụn
của mình
Dì ơi! Mẹ ơi! Làng ơi!...
Gom vào tim thành Mảnh Hồn
Quê
(Về
quê)
Quê cha được hoài niệm
, thấp thỏm trong các bài thơ “Bến Châu
Giang”, “Tiếng gọi bến quê”, “Chùa Đọi
Sơn ngày bão”. Cái bến quê, không chỉ là bến sông quê như người ta thường hình
dung, mà là bến đỗ của đời người sau một thời trôi dạt. Một hình ảnh thơ mới lạ rưng rưng không biết có chút bóng dáng nào từ bài thơ “Hồi hương ngẫu thư” ( Ngẫu nhiên viết
nhân buổi mới về quê) của Hạ Tri Chương? :
Tha hương suốt
một đời
Cuối đường trần trở lại
Nấm đất tươi ngai ngái
Thổn thức hoài bến quê…
6-2009
( Bến đậu cuối cùng là nấm đất mộ)
Người viết cũng dành
cho Hà Nội, quê sinh trưởng những hoài niệm, thương mến trong các bài thơ “Chợ
trong …Mơ”, “Hà Nội mùa xa…”, “Sang
mùa”, “Con dâu Hà Giang”, “Viết ở Bệnh viện Hữu Nghị”. Chị đã phải gọi to lên:
Sương thoảng
mờ Hà Nội
Giờ chỉ mình em thôi
Quê hương Thăng Long ơi!
Mùa sấu đi qua rồi
(Hà Nội mùa xa)
Người đọc ấn tượng sâu
sắc với những bài thơ về những miền quê
Việt bị thiên tai, bão lũ. “Phập phồng
đất mẹ thức cùng thương đau”. Đấy cũng chính là lí do vì sao nhà thơ luôn
thấp thỏm, trăn trở, lo âu:
Bão qua nhà
rách mái trơ
Vì kèo gió rít xác xơ xóm
nghèo
Mặt người héo hắt gieo neo
Lên đênh kiếp lúa bọt bèo kiếp
ngô
(Thảm khốc bão)
Rồi cái lụt khủng khiếp do con người “xả lũ đúng quy
trình”:
Nước réo bốn
bề cửa nhà ngoi ngóp
Cây trồi lên trụt xuống
Lúa chết đuối
Lơ thơ tóc lá chòm ngô
Nghe trong óc sóng vỗ
Bùn tràn vào tim
( Xả lũ)
Nước ta là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Nhưng vẫn còn những “mùa đói” do thiên tai, nắng hạn năm 2016. Những câu thơ thật ám ảnh và đầy trách nhiệm công dân:
Vọng cổ khản
đặc thều thào hát
Thương em hoài lắt lẻo cầu
tre…
Trâu gầy hóp nhai mùi lá cháy
Nuốt vêu vao lũ cừu khoác bộ
áo vàng quăn
Đàn
bò gõ móng mặt sông vỡ toác
Rờn rợn héo úa cả đồng thẳng
cánh cò bay
( Mùa
đói)
Sẽ không ngạc nhiên khi
cô giáo- nhà thơ chắt chiu những tình cảm mến thương những miền quê khác
như Ninh Kiều, Tú Lệ, Đường Lâm,... Chị
“Thương lắm Đất Mũi”, nặng lòng với “
Tình cao nguyên đá Hà Giang”. Được đến
những miền đất khác nhau trên thế giới, nhưng người đa cảm đa mang “thấp thỏm
quê” ấy không phút giây nào quên quê Việt
thân thương:
Tháp Bigben
như thơ
Ngửa mặt ngưỡng mộ nước Anh
Còn nhớ Tháp Rùa cổ kính
(Vai gầy mẹ đây con hãy tựa đầu)
Mưa Kob
Lenz giọt ngã giọt bay
Rặng aisbau gió thổi tung vòm lá
Xòe tay hứng…mát mưa Hà Nội
Thảng thốt nước mắt sâm cầm ướt
đẫm lòng nhau
(Từ Koblenz nhớ nhà)
Nghìn đảo
Torento nhớ Hạ Long diết da
Phố cổ trầm mặc dòng đời chảy
qua
( Thơ mộng Canada)
Đó là cảm nhận về nỗi
thấp thỏm, lo lắng, yêu mến, thương quê
của tác giả. Trong tập này, nhà giáo-nhà thơ Bùi Thị Hạnh còn viết về tình mẹ
con, thầy trò, chồng vợ, bạn bè, về các thi nhân Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến,
Nguyễn Bính. Đặc biệt còn có ba bài viết : “Học
để làm thơ” nói về những sửa chữa, biên tập thơ của các nhà thơ Tạ Hữu Yên,
Vũ Quần Phương, Vương Trọng, Duy Khoát, Nguyễn Thế Kiên, Bàng Ái Thơ, Nguyễn Mạnh Chu, Đoàn Thông, Đỗ Quyết. Hai bài bình thơ của
tác giả do hai nhà thơ Hội viên Hội Nhà
Văn Hà Nội là Đỗ Chiến Thắng, Lê Hà viết về bài Hoa tình đầu và Bát canh đay.
Tác giả mong muốn gặp gỡ: “Ai người tri kỉ chút vấn vương” (Gửi tri âm).Tôi nghĩ rằng sẽ có
nhiều bạn bè, đồng nghiệp, học sinh và người đọc tri âm thơ chị./.
Hà Nội, 25 tháng 2 năm 2020
Đã in báo NGƯỜI HÀ NỘI, số ra ngày 8/3/2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét