Thứ Sáu, 6 tháng 3, 2020

MỘT NGƯỜI ĐA CẢM ĐA MANG





MỘT NGƯỜI ĐA CẢM ĐA MANG
  Về tập thơ “Thấp thỏm quê” của Bùi Thị Hạnh, Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2019
                                                           
                                                            Vũ Nho
          Cô giáo môn Ngữ văn Bùi Thị Hạnh, Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội sinh trưởng ở Hà Nội. Tập thơ “Thấp thỏm quê” là tập thơ thứ ba của nhà giáo đa cảm, đa mang. Đa cảm vì kể  từ khi cầm bút viết bài thơ “Hoa tình đầu”, cũng là tên tập thơ đầu, cô giáo trẻ ấy đã yêu  bằng một tình yêu thủy chung bền bỉ    có vẻ đơn phương, vô vọng:
          Mình em đi khắp muôn phương
          Vớt câu hát cũ lời thương ngày nào […]
          Yêu chi yêu suốt một đời
          Chỉ mong người nói một lời trăng suông
          Ngó sen rời vẫn tơ vương
          Ngàn năm Ngâu lã chã thương tình đầu
Đa mang vì “thấp thỏm quê” là trạng thái không yên lòng, luôn lo lắng, hồi hộp, bất an  đối với quê. Mà quê, thì không phải  “mỗi người chỉ một”  như nhiều người. Quê với người làm thơ là thành phố Hà Nội , nơi sinh trưởng, lại còn là quê  cha ở Hà Nam, quê mẹ ở Kiến An, Hải Phòng. Một tấm lòng thấp thỏm ba quê! Hơn nưã, khi ở Việt Nam thì Hà Nội, Hải Phòng, Hà Nam là quê, còn khi ra nước ngoài nhìn về thì Việt Nam là  đất nước, là quê hương, quê Việt. Khi ấy thì miền Trung, Cà Mau, Cần Thơ hay Hà Giang, Yên Bái cũng là quê Việt, cũng là niềm thấp thỏm của người viết!
          Với quê mẹ An Lão, người viết “bao đêm thấp thỏm xa xôi” với người quê “Tảo tần chan gió gội mưa”:
          Người quê chân đất áo sồng
          Phù sa lắng đọng dòng sông nên mùa
          Ngón chân tõe đỏ mặn chua
          Mồ hôi bạc cả gió lùa sương đông
          Xâu cua cõng nặng cánh đồng
          Cái tôm, cái cáy phập phồng đói no
                               (Thấp thỏm quê)
Thật nồng nàn, da diết. Đó là những câu thơ mộc mạc nhưng thấm đẫm tình của người hiểu quê, yêu quê đến thắt lòng.

          Quê mẹ còn trở đi trở lại trong các bài thơ “Mẹ tôi”,  “Giỗ mẹ ở Anh quốc”,  “Về quê”:
                   Nước người gió trước gió sau
                   Ngọn nào gió quẩn hàng cau mẹ về
                   Dâng xôi lúa, miến dong quê
                   Thoảng hương ngô nếp triền đê làng mình
                                         (Giỗ mẹ ở Anh quốc)
Cái làng quê nghèo “Lúa non ướp hương đồng lên vời vợi/  Quả chay mớ tép thơm suốt tuổi thơ” theo  người viết  suốt  đời thành “mảnh hồn quê”:
                   Lạc lối áo cơm bên kia dốc đời
                   Giật mình vì kèo tắc kè nấc cạn
                   Ta nhặt những mảnh nấc gãy vụn của mình
                                         Dì ơi! Mẹ ơi! Làng ơi!...
                   Gom vào tim thành Mảnh Hồn Quê
                                           (Về quê)
Quê cha được hoài niệm , thấp thỏm trong  các bài thơ “Bến Châu Giang”, “Tiếng gọi bến quê”,  “Chùa Đọi Sơn ngày bão”. Cái bến quê, không chỉ là bến sông quê như người ta thường hình dung, mà là bến đỗ của đời người sau một thời trôi dạt. Một hình ảnh thơ  mới lạ rưng rưng không biết có chút  bóng dáng nào từ bài thơ “Hồi hương ngẫu thư” ( Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê) của Hạ Tri Chương? :
                   Tha hương suốt một đời
                   Cuối đường trần trở lại
                   Nấm đất tươi ngai ngái
                   Thổn thức hoài  bến quê…
                                 6-2009
                         ( Bến đậu cuối cùng là nấm đất mộ)
Người viết cũng dành cho Hà Nội, quê sinh trưởng những hoài niệm, thương mến trong các bài thơ “Chợ trong …Mơ”,  “Hà Nội mùa xa…”, “Sang mùa”, “Con dâu Hà Giang”, “Viết ở Bệnh viện Hữu Nghị”. Chị đã phải gọi to lên:
                   Sương thoảng mờ Hà Nội
                   Giờ chỉ mình em thôi
                   Quê hương Thăng Long ơi!
                   Mùa sấu đi qua rồi
                                       (Hà Nội mùa xa)
Người đọc ấn tượng sâu sắc với những bài thơ về  những miền quê Việt  bị thiên tai, bão lũ.  Phập phồng đất mẹ thức cùng thương đau”. Đấy cũng chính là lí do vì sao nhà thơ luôn thấp thỏm, trăn trở, lo âu:
                   Bão qua nhà rách mái trơ
                   Vì kèo gió rít xác xơ xóm nghèo
                   Mặt người héo hắt gieo neo
                   Lên đênh kiếp lúa bọt bèo kiếp ngô
                                      (Thảm khốc bão)
Rồi cái lụt  khủng khiếp do con người “xả lũ đúng quy trình”:
                   Nước réo bốn bề cửa nhà ngoi ngóp
                   Cây trồi lên trụt xuống
                   Lúa chết đuối
                   Lơ thơ tóc lá chòm ngô
                   Nghe trong óc sóng vỗ
                   Bùn tràn vào tim
                             ( Xả lũ)
 Nước ta là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Nhưng vẫn còn những “mùa đói” do thiên tai, nắng hạn năm 2016. Những câu thơ  thật ám ảnh và đầy trách nhiệm công dân:
                   Vọng cổ khản đặc thều thào hát
                   Thương em hoài lắt lẻo cầu tre…
                   Trâu gầy hóp nhai mùi lá cháy
                   Nuốt vêu vao lũ cừu khoác bộ áo vàng quăn
                    Đàn bò gõ móng mặt sông vỡ toác
                   Rờn rợn héo úa cả đồng thẳng cánh cò bay
                                       ( Mùa đói)
Sẽ không ngạc nhiên khi cô giáo- nhà thơ chắt chiu những tình cảm mến thương những miền quê khác như  Ninh Kiều, Tú Lệ, Đường Lâm,... Chị “Thương lắm Đất Mũi”, nặng lòng với “ Tình cao nguyên đá Hà Giang”. Được đến những miền đất khác nhau trên thế giới, nhưng người đa cảm đa mang “thấp thỏm quê” ấy không phút giây  nào quên quê Việt thân thương:
                   Tháp Bigben như thơ
                   Ngửa mặt ngưỡng mộ nước Anh
                   Còn nhớ Tháp Rùa cổ kính
                                       (Vai gầy mẹ đây con hãy tựa đầu)
                   Mưa Kob Lenz  giọt ngã giọt bay
                    Rặng aisbau gió thổi tung vòm lá
                   Xòe tay hứng…mát mưa Hà Nội
                   Thảng thốt nước mắt sâm cầm ướt đẫm lòng nhau
                                       (Từ Koblenz nhớ nhà)
                   Nghìn đảo Torento nhớ Hạ Long diết da
                   Phố cổ trầm mặc dòng đời chảy qua
                                      ( Thơ mộng Canada)
Đó là cảm nhận về nỗi thấp thỏm, lo lắng, yêu  mến, thương quê của tác giả. Trong tập này, nhà giáo-nhà thơ Bùi Thị Hạnh còn viết về tình mẹ con,  thầy trò, chồng vợ, bạn bè,  về các thi nhân Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Bính. Đặc biệt còn có ba bài viết : “Học để làm thơ” nói về những sửa chữa, biên tập thơ của các nhà thơ Tạ Hữu Yên, Vũ Quần Phương, Vương Trọng, Duy Khoát, Nguyễn Thế Kiên, Bàng Ái Thơ, Nguyễn Mạnh  Chu, Đoàn Thông, Đỗ Quyết. Hai bài bình thơ của tác giả  do hai nhà thơ Hội viên Hội Nhà Văn Hà Nội là Đỗ Chiến Thắng, Lê Hà viết về bài Hoa tình đầuBát canh đay.
          Tác giả mong muốn gặp gỡ: “Ai người tri kỉ chút vấn vương” (Gửi tri âm).Tôi nghĩ rằng sẽ có nhiều bạn bè, đồng nghiệp, học sinh và người đọc tri âm thơ chị./.
                                                           Hà Nội, 25 tháng 2 năm 2020

Đã in báo NGƯỜI HÀ NỘI, số ra ngày 8/3/2020

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét