Thứ Ba, 27 tháng 10, 2020

DÀO DẠT ẤM NỒNG MỘT TÂM HỒN CHIẾN SĨ

 


DÀO DẠT  ẤM NỒNG  MỘT TÂM HỒN CHIẾN SĨ

Đọc “Buông một giọt trầm” của Nguyễn Thị Hoàng Hòa, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2020

                                                    Vũ Nho

Tôi ngẫu nhiên quen biết Nghệ sĩ vùng Mỏ Nguyễn Thị Hoàng Hòa. Chị có giọng đọc thơ đầy sức cuốn hút và truyền cảm. Gặp gỡ giao lưu với câu lạc bộ thơ Truyền Đăng mà chị làm chủ nhiệm, cùng làm việc trong Ban chấp hành Hiệp hội phi hư cấu Việt Nam (VANFA), tôi thấy chị còn có khả năng ghi nhớ tuyệt vời. Chị có thể đọc không vấp váp  thơ của nhà thơ Đoàn Thị Lam Luyến và một số bạn thơ khác mà không cần giở sổ tay. Thế mà  sau tập thơ “Tình yêu của tôi” (2000), mãi đến nay là 20 năm, tác giả mới in tập thơ  thứ hai. Quả thật đáng nể về tinh thần khiêm nhường và  cẩn trọng.

Không khó khăn gì khi thấy rằng, tập thơ này, người viết là một cựu quân nhân. Có lẽ vì thế chăng mà các bài về  chiến tranh, về đồng đội, về các chiến sĩ canh biển, giữ đảo luôn dào dạt một cảm xúc thiết tha, nồng ấm. Hơn thế nữa,  có thể có gien di truyền về thơ ca  từ người cha, vốn là cựu chiến sĩ Điện Biên:

Cuốn sổ tay hoen màu năm tháng

(Nhật kí Điện Biên đất trời rực sáng

Những bài thơ về đồng đội yêu thương)

                       (Phút lâm chung của cha tôi)

Các bài thơ về  chiến tranh, đồng đội, về chiến sĩ là phần quan trọng của tập thơ. Lễ cưới linh hồn,  Thi hài trên cây, Đánh thức những linh hồn, Hoa hồng trong thành cổ, Sau trận đánh, Bến không chồng, Đảo thiêng, Đảo Trần ngày biển động, Về đảo nhỏ với anh, Người lính gác đảo chìm, Bão Tố Trường Sa, Cây tre trên đảo Trường sa, Sóng ở đường biên, Thăm đồng đội cũ ở Tiên Yên, Mưa bóng mây.

Bạn đọc đã từng biết đến bài thơ “Đám cưới một linh hồn” của nhà văn Vũ Bình Lục đoạt giải nhì cuộc thi thơ Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Không rõ tác giả Hoàng Hòa có đọc bài đó không. Nhưng đó là đám cưới của một chiến sĩ bị thương với người yêu hy sinh có mộ trong nghĩa trang Trường Sơn. Đám cưới của một người sống và một người đã khuất.  Còn Lễ cưới linh hồn của Nguyễn Thị Hoàng Hòa viết về lễ cưới của linh hồn  hai liệt sĩ, một trong hai người là đồng đội của chị. Có lẽ cũng là một đám cưới độc nhất vô nhị trên đất nước ta đầy mất mát hi sinh:

          Lễ cưới bắt đầu bằng một tuần nhang

          Khấn gọi linh hồn hai liệt sĩ

          Ngót bốn mươi năm yên nghỉ

          Họ bên nhau mà chưa kịp thành hôn

Có nỗi đau nào đau hơn

Lễ đưa đón dâu chìm trong nước mắt

Hai họ nghẹn ngào ngày gặp mặt

                            (Lễ cưới linh hồn)

Trải qua chiến tranh đau thương, mất mát,  những người cựu chiến binh gặp nhau, thăm hỏi nhau trong hòa bình mừng tủi, ngậm ngùi:

                   Hết chiến tranh trở lại quê hương

                   Gặp lại nhau mừng mừng tủi tủi

                   Đồng đội bây giờ ai nghèo, ai đói

                   Ai may mắn trở về, ai nằm lại nơi xa?

                                   (Thăm đồng đội cũ ở Tiên Yên)

Bằng tâm hồn của một  quân nhân, một người phụ nữ, Nguyễn Thị Hoàng Hòa đau xót trước những người lính trẻ hi sinh:

                   Ôi những thân trai mười chín đôi mươi

                   Môi thơm chưa hề hôn bạn gái

                   Chưa hề ôm – vòng tay vụng dại

                   Sách vở xếp một bên , vội vã lên đường

                                         (Sau trận đánh)

Chị xót xa, cảm thông với nỗi đau của những người phụ nữ nơi “Bến không chồng”:

                    Giấy báo tử bay về mang con dấu vuông

                   Đóng lên cuộc đời những đàn bà góa

                   Bến không chồng lại một lần mở dạ

                   Ôm vào lòng những chua xót đắng cay  

                                           (Bến không chồng)

Chị cảm thông với nỗi niềm những chị em “Xóm không chồng” xã Yên Thành, thành phố Uông Bí với bài “Mưa bóng mây”.

 


 

Với những người lính nơi đảo xa,  người viết vừa  cảm thông, vừa tự hào, vừa ca ngợi sự dũng cảm, kiên cường:

                    Nhà của lính đảo Chìm xây bằng nước

                   Bát cơm chan giông gió ướt nhòe

                   Nắng bốc lửa lưng trần cháy sém

                   Mái lều bạt mỏng  chẳng đủ che

                                       (Người lính gác đảo Chìm)

Chùm thơ về đảo Trần, đảo Trường Sa thật cảm động.  Trong đó có bài “Cây tre trên đảo Trường Sa” với  ý nghĩa “Mang hơi ấm từ đất liền ra đảo/ Tre cùng người thao thức đêm đêm”. Và cảm động và ấm áp nhất là khổ thơ này:

                   Quần đảo Trường Sa tre đã sinh sôi

                   Trước bão tố tre giăng thành chiến lũy

                   Đứa con đầu của vợ chồng chiến sĩ

                   Ngủ ngon lành trong chiếc nôi tre….

                                                (Cây tre trên đảo Trường Sa)

 Không chỉ viết nhiều về chiến tranh, người lính, thơ của Nguyễn Thị Hoàng Hòa còn đề cập đến những vấn đề thời sự của cuộc sống . Đó là chuyện lấn biển bừa bãi:

                   Đất lấn chiếm, đất dựng xây , lấp vội

                   Bờ chỉ còn cách đảo một tầm tay

                                     (Sóng thôi đừng khóc)

Đó là chuyện đảo lộn thang giá trị:

                   Giá trị văn chương cũng đảo lộn rồi

                   Ba câu thơ dám mượn danh thần thánh

                                     (Gã đời)

Đó là chuyện  đứa con chứng kiến sự “ăn mặn” của cha mẹ mình:

                   Tôi không thể nào thành đứa trẻ ngoan

                   Khi chứng kiến cảnh cha “cướp” tiền của dân cười hô hố

                   Mẹ tôi nhân tiền ấy nhanh như gió

                   Nhờ quyền lực của cha       

                                    (Gia đình tôi)

Đó là chuyện tay Giám đốc trắng trợn ép người phụ nữ trong bài thơ “Lời thỉnh cầu khiếm nhã”.

Có thể thấy sức đi và sức viết của Nguyễn Thị Hoàng Hòa từ đảo Trần, qua Trà Cổ, Cô Tô, Tiên Yên, Bình Liêu,  Trung Quốc, Ngã ba Đồng Lộc, Thành Cổ Quảng Trị,Tây Nguyên,..

          Thế nhưng đằng sau sự xông xáo, dấn thân đó, còn có một Nguyễn Thị Hoàng Hòa khác. Tôi muốn nói tới góc khuất tâm hồn của nhà thơ. Đó là con người  trầm buồn  cố nén:

Gió hồn nhiên lồng lộng thổi ngang  đầu

Bạn tôi hồn nhiên giỡn đùa trên sóng

Tôi ngửa mặt nhìn trời cao rộng

Nén tiếng thở dài – trước cung bậc trần gian

                    (Ở biển Cô Tô)             

Đó là con người của ban đêm lặng lẽ, cô đơn. Cô đơn đến mức:

                               Cô đơn, tôi tự lũy thừa tôi

                                         (Tôi!)

Vâng, dù có lũy thừa mũ “n” để có một số lượng “n” cái tôi thì vẫn cứ cô đơn, vẫn chỉ có một cái TÔI thôi mà cô đơn thì tăng lên gấp bội. Vì sao   con người ham hoạt động biểu diễn, sáng tác, tổ chức giao lưu, gặp gỡ lại cô đơn? Câu trả lời  có thể là đây chăng?:

                   Có ngờ đâu đến cuối cuộc đời

                   Phải đối mặt với nỗi buồn thảm khốc

                   Thấy cô đơn giữa những người thân thuộc

                                   (Có ai không?)

 Đối mặt với nó thế nào đây? Nhà thơ đã chọn một các ứng xử minh triết, nhân hậu, bao dung:

                    Thì nhẫn nhé…lặng im…và cười nhẹ

                   Những bon chen, bội phản, lọc lừa

                    Những may rủi , buồn vui, nhân quả

                   Sẽ qua thôi – như một cơn mưa

                   

                    Muôn mặt cuộc đời đem chưng cất

                   Để ta thành

                                      MỘT GIỌT TRẦM – BUÔNG!

                                      (Buông! Một giọt trầm)

Chính cách ứng xử đó làm cho  người thơ giữ được lửa nhiệt tình, lòng yêu người, yêu đồng đội, bạn bè, yêu cuộc sống;  làm nên gương mặt thơ Nguyễn Thị Hoàng Hòa riêng trong vùng Mỏ và rộng ra là cả nước.

                                        Hà Nội, 28 tháng 9 năm 2020

 

                  

 

                  

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét