Câu đối – một thể loại văn học, một thú chơi tao nhã
CẬP NHẬT NGÀY: 20 THÁNG NĂM, 2024 LÚC 08:30
Vanvn- Chúng ta, từ người bình dân đến những học giả đều lấy câu đối dể thể hiện tình cảm, tâm chí mình, ca ngợi công đức tổ tiên, những anh hùng dân tộc, những vị tổ nghề, có công với cộng đồng; đồng thời coi đây là một thú chơi tao nhã khi cao đàm khoát luận, khi chén tạc, chén thù…
Xuất phát của câu đối, của cách nói đối xứng, trước hết là do quan sát và phát hiện tính hai mặt, tính song song của tự nhiên mang tính triết học (nhất âm nhất dương) và do đặc thù của ngôn ngữ đơn âm tiết của Trung Hoa và Việt Nam.
Chúng ta rất dễ nhận thấy, như GS Phan Ngọc từng chỉ ra, trong dân gian, người Việt thường hay dùng cách nói đối xứng, ví như: Khôn nhà dại chợ, Giỏ nhà ai, quai nhà nấy, Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng…Còn việc khắc treo câu đối bằng đá, gỗ, viết lên cột thì cũng do tín ngưỡng và điều kiện tự nhiên mang tính thuần Việt. Chúng tôi không nghĩ rằng, xuất xứ của nó theo truyền thuyết Trung Hoa là từ việc dân gian treo bùa bằng gỗ đào vẽ hổ và hình hai anh em ông Thần Trà, Uất Luỹ để xua đuổi tà ma, có ma quỷ ác đến thì ném cho hổ ăn thịt, gọi là Đào phù. Trong cuộc sống, cái gì cần thì người ta sáng tạo ra; còn cái na ná thì chỉ để tham khảo mà thôi.
Tuy nhiên, Trung Hoa là một nước có truyền thống lâu đời về câu đối. Một số sách nghiên cứu ở Trung Quốc khẳng định, câu đối sớm nhất ở nước họ là một câu đối Tết của Mạnh Sưởng (đời Hậu Thục chúa) năm 964: Tân niên nạp dư khánh; Giai tiết hiệu trường xuân.
Trong dân gian lưu truyền nhiều câu đối xuân gọi là xuân liên, ví như Nhất nguyên phục thủy; Vạn tượng canh tân (Sau một năm lại trở lại từ đầu; Vạn vật đều đổi mới) hoặc Thiên tăng tuế nguyệt, nhân tăng thọ;Xuân mãn càn khôn, phúc mãn môn (đường) nghĩa là Trời thêm năm tháng, người thêm thọ; Xuân đầy trời đất, phúc đầy nhà. Hoặc: Nhân thọ, niên phong, gia gia lạc; Quốc thái, dân an, xứ xứ xuân (Người thọ, năm được mùa, nhà nhà vui; Nước ổn, dân yên, xứ xứ xuân).
( Ghi nhanh chuyến tham quan của TNMCT lên tỉnh Bắc Cạn ngày 13, 14/5/2024)
QUANG HOÀN
Chuông điện thoại reng reng báo thức lúc 4h30. Tôi nhẹ nhàng ngồi dậy. Việc đầu tiên là vén rèm nhìn xuống mặt đường. Ôi, đường khô cong chứ ko có những dòng nước chảy xối xả như chiều và đêm qua. Mừng quá, tôi vùng dậy chuẩn bị cho chuyến lãng du lên vùng Đông Bắc, thăm Tp Bắc Cạn và hồ Ba Bể cùng đoàn TNMCT theo kế hoạch. Đang chuẩn bị ăn lót dạ để uống mấy viên thuốc thì chuông điện thoại lại vang lên. Nhà thơ Ptm Đình Bắc gọi: - Xong chưa, chuẩn bị đi nhé ! Nhìn đồng hồ mới có 5 h. Tôi bảo: Hôm qua anh hẹn em 5h30 ra chân cầu vượt gần đèn xanh đỏ HH mà. A Bắc ừ. Thì ra đêm qua Ptm cũng thao thức ko ngủ được vì chuyến đi này.
6 h kém 15 hai anh em đã có mặt tại điểm hẹn đầu tiên tại đầu ngõ 31 Phan Đình Giót. Trong khi nhâm nhi chén trà nóng chờ các thành viên khác, hai anh em đều rất mừng vì ngày mới mây quang và mát, báo hiệu một ngày tưởng ko đẹp mà đẹp ko tưởng.
Đúng 6h chiếc xe ca 29 chỗ xuất hiện cùng lúc với 3 thi nhân nữa là Pgs Ts Vũ Nho, nhà thơ kiêm nhạc sĩ Văn Quang , nhà thơ Trương Việt . Còn hai vợ chồng nhà thơ Phương Nghi vì lí do sức khoẻ nên ko đi được.
Hôm nay, ngày 15 -5-2024, thay mặt cho ban tổ chức "Cuộc giao lưu mùa hạ" của Miền Cổ Tích tại Bắc Kan - Hồ ba Bể ngày 13 - 14 tháng 5 năm 2014, thành công ngoài mong đợi, chúng tôi vô cùng cảm kích, nói lời cảm ơn tới: - Ông Nguyễn Đăng Hùng đại diện cho chính quyền địa phương - Ông Hoàng Minh Thư đại diện cho liên ngành văn hóa tỉnh Bắc kan. - Chị Nguyễn Thị Thanh Hằng và thành đoàn thanh niên tỉnh Bắc Kan - Công ty du lịch sinh thái tỉnh Bắc kan - Ông Vũ Văn Xuân cùng ban chủ nhiệm và các hội viên câu lạc bộ văn nghệ thành phố Bắc Kan - Ban quản trị, ban cố vấn và các miền viên nòng cốt của Miền Cổ Tích cùng các bạn hiền văn chương Thủ đô Hà Nội- Đặc biệt là Thi Nhân Nguyễn Thị Xê : Người chắp cầu nhịp cầu thân yêu cho mối tình nồng thắm Bắc Kan - Miền Cổ Tích! Kính thưa quý vị: Mặc dù kế hoạch của chuyến đi, ban đầu có gặp đôi điều khó khăn, nhưng nhờ tấm lòng vàng nhân văn, ý chí tiến thủ và đặc biệt là sự sẻ chia nghĩa tình của các thi nhân ta và các đơn vị bạn, chúng ta đã chiến thắng mọi khó khăn. Điều đó được chứng minh bằng những kết quả mỹ mãn - có thể nói là xuất sắc, nhiệm vụ, tạo cảm hứng nền tảng cho việc sáng tác.
Nhân vào trang vanhocsaigon, chúng tôi đọc được bài viết của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Phan (Tạp chí Cửa Việt số 329).
Việc các cụ túc nho Hoa Bằng và Tảo Trang công bố hai câu đối:
Thập tải luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa
không phải của Cao Bá Quát, mà của Ngải Tuấn Mỹ ( Trung Quốc) chép tặng phó sứ Nguyễn Tư Giản là một việc khoa học, nghiêm túc.
Các cụ còn dẫn cả các câu mà Ngải Tuấn Mỹ chép tặng chánh sứ Lê Tuấn, phó sứ Hoàng Tịnh.
Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Phan tỏ ra thận trọng khi phủ nhận công bố của cụ Hoa Bằng và cụ Tảo Trang. Tuy vậy chính cụ Hoa Bằng công bố rồi cụ CẢI CHÍNH, điều đó cho thấy cụ Hoa Bằng không tin vào cụ Đỗ Mộng Khương và Đoàn Như Khuê. Vì sao cụ không tin? Vì cụ Hoa Bằng đã tìm thấy câu đối đó trong Yên Thiều bút lục! Các cụ vốn rất cẩn trọng! Phải nói có sách, mách có chứng. Cụ Hoa Bằng không tin cụ Đỗ Mộng Khương và Đoàn Như Khuê, tôi ĐOAN CHẮC rằng cụ Đỗ và cụ Đoàn không có SÁCH, mà chỉ NHỚ rồi đọc cho cụ Hoa Bằng!
ĐÊM HỌA MI đến cùng giấc mơ đêm chập chờn sao hạt sương im lặng đêm nói gì khi ánh ngày chìm dần vào bóng tối khi tiếng còi tàu giục giã chiêm bao
se se lạnh đêm nay ngôi sao cũng lạnh lam lũ Long Biên bờ bãi mùa người
tàu vẫn chạy đường ray trên sóng sông vẫn thức, toa chạm vào ký ức gối đầu lên bóng tối, cùng dửng dưng, ai ngủ họ có lấp đầy nhau những chống chếnh hôm nay
sông mặc khải ai đến từ sương khói thắp chữ độc hành đọc trăng nơi bến gió trăng soi sáng cả hai bờ ký tự thao thức giữa lở bồi linh cảm viết lên sông
Giao hưởng Điện Biên – thành tựu mới của nhà thơ Hữu Thỉnh
CẬP NHẬT NGÀY: 12 THÁNG NĂM, 2024 LÚC 09:46
Vanvn- Chiến thắng Điện Biên là một chiến thắng vĩ đại của chúng ta “Lừng lẫy Điện Biên chấn động địa cầu” (Tố Hữu). Chiến thắng đó làm rạng danh nước Việt trên thế giới. “Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Nguyễn Đình Thi). Ngày 7 tháng 5 năm 1954, lá cờ Quyết chiến Quyết thằng bay trên nóc hầm tướng Đờ cát, ngày 12 tháng 5 Bác Hồ đã có bài thơ dài đăng trên báo Nhân Dân : “Quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ”. Rồi sau đó Tố Hữu mới có bài thơ nổi tiếng “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”. Điện Biên còn được các nhà thơ, nhà văn Việt Nam nhắc đến nhiều trong các bài thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết. Điện Biên cũng được nhắc đến trong các cuốn sách của đại tướng Võ Nguyên Giáp và các tướng lĩnh, nhà báo của ta và phương Tây.
Năm nay kỉ niệm 70 năm ngày quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ, nhà thơ Hữu Thỉnh đã ở tuổi 82 vừa cho ra mắt tập trường ca “Giao Hưởng Điện Biên”. Đây là một cố gắng rất lớn, một thành tựu mới đáng ghi nhận của nhà thơ.
Thoát ly – quê hương là… nhà dưỡng lão – Tiểu luận Hồ Anh Thái
CẬP NHẬT NGÀY: 10 THÁNG NĂM, 2024 LÚC 21:50
Vanvn- Đất nước thiên về làm nông. Một số sản phẩm nông nghiệp đứng hàng đầu thế giới về khối lượng xuất khẩu. Làm nông thì đất nước có thể bảo đảm an ninh lương thực, khó xảy ra nạn đói, nhưng chẳng bao giờ giàu. Làm nông mãi có thể là cái nghèo truyền đời.
Nghĩ đến thế là có tâm lý thoát ly. Vượt thoát và rời bỏ. Thoát ra khỏi đồng ruộng con trâu cái cày. Dùi mài kinh sử lều chõng đi thi. Đỗ đạt thì cái được không chỉ là học vấn mà còn lên làm quan làm thầy. Người sáng dạ lên chỗ kinh kỳ đô thị làm thuê làm mướn. Người đi lính có cơm ăn nhà nước, có năng lực thì thành tướng sĩ hoặc ông cai đội.
Vậy là người giỏi người tài người có năng lực thì đi hết. Bỏ lại ruộng vườn cho cánh đàn bà và trẻ nhỏ, cho người già, và cho một đám người… bị coi là thiếu năng lực hoặc không may mắn.
Vấn đề là không chỉ bỏ lại nhà cửa ruộng vườn, mà cả quê hương cũng giao phó hết cho những người không có cơ hội thoát ly. Đám người này lên làm lý trưởng cai tổng, đứng ra quản lý quê hương của người đã thoát ly. Kiến thức có hạn, có khi chức tước không được phân bổ theo năng lực mà do bỏ tiền ra mua, lại thêm bản tính bần tiện tham tàn, cánh hào lý này ra sức đục khoét nhũng nhiễu người dân. Hiểu biết chỉ mấy hột, tầm nhìn không quá lũy tre rặng dừa của làng, khi phải tổ chức quản lý việc công, họ loay hoay chắp vá, lợn lành chữa thành lợn què, cần bơm nước vào thì họ tát nước ra khỏi ao. Khi cần nâng tầm ảnh hưởng cho làng xóm, khuếch trương lòng tự hào quê hương thì họ nhầm tưởng tiếu lâm giai thoại chính là lịch sử.
Vanvn- Năm nữ văn sỹ: Thanh Hương, Xuân Phượng, Vũ Thị Thường, Lý Thị Trung, Lê Giang là những tên tuổi đáng kính trọng trên văn đàn Việt Nam hiện đại. Gặp gỡ năm nữ văn sỹ tuổi cao ý chí càng cao để chúng ta hiểu và yêu thêm văn chương nước nhà, yêu thêm nhữngnữ sỹ con cháu Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương. Tuổi chín mươi vẫn gắn bó với chữ nghĩa, đó là một ân huệ quý báu của thời gian.
THANH HƯƠNG(SN.1929): Tên khai sinh Nguyễn Thị Thanh Hương. Tham gia hoạt động Cách mạng từ tháng 3-1945. Từ tháng 3-1955, làm báo Phụ nữ Việt Nam (từng giữ chức tổng biên tập tờ báo của phái đẹp, từ năm 1978-1988). Nữ văn sỹ chuyên viết truyện ngắn (2 tập in chung, 5 tập chính chủ); ngoài ra đã in 6 tập sách về chủ đề “Trò chuyện trao đổi về đề tài hôn nhân và gia đình” (công bố từ 1993 đến 2002). Nhân vật và vấn đề trong sáng tác của nhà văn là người phụ nữ Việt Nam thời hiện đại vượt khó, vươn lên giành hạnh phúc. Lối viết của nhà văn nương theo phương pháp truyền thống, cổ điển – viết về những “điều kỳ lạ của tình yêu” (nhan đề một tập truyện ngắn thành công của nhà văn). Nhà văn nghiêng về tái hiện vẻ đẹp bình thường, giản dị của cuộc sống, con người thời đại, đặc biệt là người phụ nữ thoát khỏi cái bóng “phái yếu” để trở nên bình đẳng với giới mày râu, thường được gọi là “phái mạnh”.
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh (1930 - 2018) là nhà lý luận - phê bình hàng đầu của văn học Việt Nam hiện đại. Đã có nhiều bài viết về văn nghiệp và con người giáo sư với tư cách là bạn bè, đồng nghiệp, hoặc học trò. Bài viết này là chút hoài niệm của người có thời là hàng xóm của giáo sư, nhân dịp tròn 5 năm ngày ông rời cõi thế.
Tôi là hàng xóm của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh có dễ hơn chục năm. Điều này tôi đã ít nhiều đề cập tới ở bài viết “Miên man cùng Chu Văn Sơn - Bạn tôi”. Như đã nói, tôi là bạn Chu Văn Sơn, mà Sơn lại là một trong những học trò yêu, hay học trò ruột, của “cụ Mạnh”. “Bác về Quan Hoa thì sẽ là hàng xóm của cụ Mạnh đấy!”. Ấy là thông tin đầu tiên về giáo sư khi tôi chuẩn bị chuyển chỗ ở đến làng Quan Hoa, gần Cầu Giấy, nằm ngay cạnh sông Tô Lịch. Trước đấy, vì yêu văn chương, tôi cũng ít nhiều đọc Nguyễn Đăng Mạnh đâu đó nhưng chưa hề biết mặt.
Gia đình thầy Mạnh (tôi vẫn theo các trò gọi giáo sư là thầy xưng em) đã chuyển từ Đồng Xa (khu Tập thể Đại học sư phạm) về Quan Hoa vào đầu năm 90 của thế kỷ trước, trước tôi khoảng vài năm. Cũng là mua đất làng, rồi dựng nhà. Căn nhà hai tầng nằm trong ngách, thuộc Ngõ 68 Quan Hoa, không rộng lắm, tọa lạc trên một mảng đất cũng chẳng vuông vức gì. Sân chỉ là một khoảng nhỏ đủ chỗ cho một cây mít, chắc là có sẵn trên nền đất cũ. Một khung sắt hàn chắn ngoài cửa nhà, muốn gặp chủ nhân thì phải bấm chuông. Người ra mở cửa thường là cô Thoại, phu nhân của thầy, cũng là một nhà giáo đứng tuổi nay đã nghỉ hưu. Thầy có hai con, anh lớn làm việc ở Sài Gòn, thỉnh thoảng mới về thăm nhà, cô em gái ở với gia đình, hồi ấy chưa chồng. Cơ ngơi của một giáo sư XHCN, một thời nghèo khó nay các con đã trưởng thành có dễ thở hơn, xem ra cũng vẻn vẹn chỉ vậy. Dù thế, so với chen chúc ở khu tập thể cũ, đội mũ lá sờn vành, đi xe đạp cà tàng, thì chắc cũng là một cuộc “đổi đời” rồi.
Vanvn– Hà Đức Toàn bảo, anh mơ ước có ngày đủ bút lực để dựng lại chân dung người anh hùng, mà lịch sử còn nhiều khuất lấp…
Năm 1970, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội, tôi lên công tác tại Sở Giáo dục Khu Tự trị Việt Bắc. (Ngày ấy miền Bắc XHCN có hai Khu Tự trị được thành lập sau 1954, là Khu Tự trị Tây Bắc, còn gọi là Khu Tự trị Thái Mèo, gồm các tỉnh Điện Biên, Sơn La, Lai Châu, Nghĩa Lộ, Yên Bái, thủ phủ đặt tại Sơn La; và Khu Tự trị Việt Bắc, còn gọi là Khu Tự trị Tày Nùng, gồm Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, thủ phủ đặt tại Thái Nguyên). Cơ quan Sở Giáo dục sơ tán ở một xóm um tùm tre pheo thuộc Hóa Trung, gần con đường nối giữa đường 1B và đường số 3, qua cầu treo Sơn Cẩm. Cơ quan chừng bốn chục người, sống tập thể trong những nếp nhà lá cọ dựng tạm, chung bếp ăn tập thể, vui như thời kháng chiến.
Buổi sinh hoạt cơ quan đầu tiên, khi mọi người giới thiệu với tôi thầy giáo Hà Đức Toàn, thuộc tổ Biên soạn sách giáo khoa tiếng Việt và tiếng Tày Nùng, người từng đoạt giải Ba Cuộc vận động viết về “Thầy giáo và nhà trường” của Báo Người giáo viên Nhân dân (Báo Giáo dục và Thời đại ngày nay), năm 1961, với bài thơ “Nên nói nên chưa?”, thì tôi kính nể vô cùng. Vậy là tôi đã có một người thầy, một người anh đi trước trên con đường văn nghiệp. Bởi tôi chỉ là một anh giáo viên Địa lý, mê văn chương và từ hồi cấp hai đã tập tành sáng tác.
Nhanh quá, mới hôm nào còn uống rượu với Hoàng Nhuận Cấm, Nguyễn Việt Chiến và các thi nhân nhóm Miền Cổ Tích mừng tân hội viên Hội nhà văn Hà Nội. Mới hôm nào vĩnh biệt nhà thơ sôi nổi, náo động, bác sĩ Hoa Súng, tác giả kịch bản phim “Mùi cỏ cháy”…Thế mà nay đã 3 năm!
Hoàng Nhuận Cầm nổi lên như một nhà thơ trẻ gây ấn tượng với chùm thơ được giải của báo Văn Nghệ, một giải thưởng danh giá.
Với tôi, thơ anh để lại ấn tượng sâu sắc. Số là bài thơ “Nghe chim kể chuyện trên đồi chốt” của anh được nhà thơ Xuân Diệu bình khổ thơ 4 câu: