THÚC SINH
Chúng ta có một Thúc Sinh ở trong
lòng. Không nhiều thì ít, trong mỗi chúng ta đều có chất liệu đam mê và nhu
nhược.
Nhất Hạnh
Vũ Nho
Thúc Sinh chỉ là một nhân vật phụ trong Truyện Kiều,
chàng là người đã quyết tâm chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, rồi lấy Kiều làm vợ
lẽ. Dù ông bố nghiêm khắc mắng mỏ, rồi đem đến công đường kiện vì tội bất hiếu,
cãi lời cha, nhưng chàng vẫn khăng khăng không chịu đuổi Kiều về lầu xanh. May
mà viên quan phủ cũng là người biết “thương vì nết, trọng vì tài” nên đã xử cho
hai người lấy nhau và khuyên Thúc ông dẹp bỏ nỗi bất bình. Nhưng với vợ là Hoạn
Thư thì Thúc Sinh không nghe lời Kiều khuyên, bưng bít, giấu giếm nên kết cục “thấp
cơ thua trí đàn bà”, chàng đành bó tay nhìn người yêu bị hành hạ. Cuối cùng
đành chấp nhận giải pháp khuyên Kiều bỏ trốn:
Liệu
mà xa chạy cao bay
Ái
ân ta có ngần này mà thôi
Đã
có nhiều lời bình phẩm về nhân vật Thúc
Sinh. Kim Thánh Thán khá nặng nề khi đánh giá Thúc Sinh với sự so sánh hai mối
tình Kim Trọng và Thúc Sinh với Kiều : “Mối
tình ấy thực là vô cổ vô kim (xưa nay không có), đâu phải mối tình của đầm Đào
Hoa có thể sánh kịp một phần trong muôn phần vậy. Bởi thế nên ta mới khinh bỉ
mối tình của chàng Thúc vậy” (Lời bình của Thánh Thán về hồi thứ 20). Nhưng
thực tình, Thúc Sinh có đáng khinh bỉ như thế không? Con người Thúc Sinh có
đáng chê trách hoàn toàn không? Chúng ta sẽ xem xét thái độ và cách cư xử của
Nguyễn Du với nhân vật này.
Trong Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Tử, Thúc
Sinh được giới thiệu là một thư sinh. Vợ là Hoạn Thư, con quan Lại bộ, đẹp và
thông minh. So với vợ “về phần tài trí
thực đã kém xa”. Thúc Sinh đến thăm Kiều được viết : “Nay chàng mượn tiếng du học, theo cha đến thành Lâm Tri, nghe danh tài
sắc của Thúy Kiều, bèn sắm một cây vóc, rồi cất lẻn phụ thân, đi cùng người bạn
tên gọi Bộ Tân để tới thăm hoa” (Truyện Kiều đối chiếu, trang 230 – 231).
Nguyễn Du không nói gì đến tài trí kém
vợ của Thúc Sinh, cũng không nhắc chuyện “cất lẻn phụ thân”, bỏ luôn cả ông bạn
cùng đi đến thăm Kiều. Nhà thơ giới thiệu Thúc Sinh có phần ưu ái:
Khách
du bỗng có một người
Kì
Tâm họ Thúc, cũng nòi thư hương
Vốn
người huyện Tích, châu Thường
Theo
nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Tri
Hoa
khôi mộ tiếng Kiều Nhi
Thiếp
hồng tìm đến hương khuê gửi vào
Trong
KVK, sau cuộc sơ kiến “chàng và nàng dan
tay trở vào phòng ngủ, ái ân đêm đó chắc sẽ mặn nồng”. Rồi tiếp đến gặp dịp
phụ thân về quê, không còn ai kiểm soát, “chàng
được tự do phóng túng, ngày xuân lắm lúc đi về, tha hồ say tỉnh, khi thì bên
hoa lựa khúc, khi thì dưới nguyệt đề thơ” (Truyện Kiều đối chiếu, trang
232). Thúc Sinh say sưa “Rồi từ đấy về sau luôn ba tháng trời, chàng
cứ liên miên lui tới, vàng bạc phung phí như thể đất bùn. Cả nhà mụ Tú thảy đều
hoan hỉ, coi như bắt được cóc vàng” (Truyện Kiều đối chiếu, trang 233).
Nguyễn Du bỏ bớt các chi tiết không hay
và diễn tả sự say mê thanh cao của Thúc (uống rượu, làm thơ, đánh cờ, chơi
nhạc):
Trướng
tô giáp mặt hoa đào
Vẻ
nào chẳng mặn, nét nào chẳng ưa […]
Sớm
đào, tối mận lân la
Trước
còn trăng gió sau ra đá vàng
Dịp
đâu may mắn lạ thường
Lại
vừa gặp khoảng xuân đường lại quê
Sinh
càng một tỉnh mười mê
Ngày
xuân lắm lúc đi về với xuân
Khi
gió gác, khi trăng sân
Bầu
tiên chuốc rượu, câu thần nối thơ
Khi
hương sớm khi trà trưa
Bàn
vây điểm nước, đường tơ họa đàn […]
Thúc
Sinh quen thói bốc rời
Trăm
nghìn đổ một trận cười như không
Cuộc
trò chuyện của Thúc Sinh với Thúy Kiều khá dài, Kiều nói hết những băn khoăn về
việc về làm vợ lẽ Thúc Sinh. Nguyễn Du
đã diễn tả chi tiết từ câu 1331 Trăm năm
tính cuộc vuông tròn đến câu 1366 Đá vàng đã quyết, phong ba cũng liều.
Khác với KVK, sau khi Kiều ưng thuận, hai người làm thơ xướng họa Hình tặng Ảnh
và Ảnh đáp Hình, rồi “hai người lại rót
một đấu rượu lớn cùng nhau hoan hỉ uống
cạn rồi mới dan tay vào phòng”
(Truyện
Kiều đối chiếu, trang 238- 241), Nguyễn Du để cho Thúc Sinh và Kiều thề thốt
gắn bó như một đôi tình nhân quyết chí:
Cùng nhau căn vặn đến điều
Chỉ
non thề bể, nặng gieo đến lời
Nguyễn
Du cũng bỏ hẳn nhân vật Vệ Hoa Dương mà Thúc Sinh dựa vào để buộc Tú Bà phải
cho chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh. Nhà thơ chỉ vắn tắt kể lại sự việc. Vai trò
của Thúc Sinh trong chuyện này được nhấn mạnh hơn:
Chiến
hòa sắp sẵn hai bài
Cậy
tay thầy thợ, mướn người dò la
Bắn
tin đến mặt Tú Bà
Thua
cơ, mụ cũng cầu hòa, dám sao.
Trong
phần so sánh việc Thúc ông kiện con trai và quan phủ xử án, chúng tôi đã đề cập
đến việc Nguyễn Du cho Thúc Sinh cãi lời cha, nhưng mềm mỏng hơn, không giở lí, mà chủ yếu là “nài kêu”. Đó cũng là
một nét khác biệt của chàng Thúc.
Có thể nói rằng nếu Thúc Sinh trong KVK được miêu tả
và đánh giá một cách khách quan, có phần chê bai, thì Nguyễn Du có cảm tình với
chàng. Chỗ nào có thể gượng nhẹ được thì gượng nhẹ, chỗ nào có thể vun vào thì
nhà thơ không ngại vun vào. Ví dụ rõ nhất là viên quan phủ xử vụ kiện của Thúc
ông. Chúng tôi xin nhắc lại ở đây: “Thứ chín, hồi thứ 12 kết thúc ở lời dạy bảo
của quan phủ. Nhưng Nguyễn Du không dừng ở đó. Nhà thơ để cho viên quan không
những cho phép hai người lấy nhau, mà còn truyền tổ chức đám cưới cho tài tử
giai nhân. Đó là điều khác với Thanh Tâm Tài Tử. Viên quan “ mặt sắt đen sì”
kiểu mặt Bao Chửng lại là người biết “thương vì hạnh, trọng vì tài”:
Kíp truyền
sắm sửa lễ công
Kiệu hoa cất
gió, đuốc hồng ruổi sao
Bày hàng cổ
xúy xôn xao
Song song đưa
tới trướng đào sánh đôi
Thương vì
hạnh, trọng vì tài
Thúc ông thôi
cũng dẹp lời phong ba”
Cũng
chính vì cảm tình với chàng Thúc nên Nguyễn Du mới viết những câu thơ thật đẹp,
thật da diết và gợi cảm về cuộc từ biệt của Thúc Sinh với Thúy Kiều. Nhà thơ đã
không ngần ngại tổ chức, sắp xếp lại, gạt bỏ việc đưa tiễn của Thúc ông, cùng
người làm công, các bạn bè của Thúc Sinh, để chỉ còn một mình Thúc Sinh từ biệt
Thúy Kiều. Cuộc từ biệt đó dưới ngòi bút Nguyễn Du trở thành một cuộc chia tay
đầy lưu luyến, bịn rịn. Và Nguyễn Du như muốn cắt cả vừng trăng để in lên nỗi
đơn chiếc của Thúy Kiều, cũng như sự vất
vả đơn độc một mình trên muôn dặm đường xa của Thúc Sinh:
Người
lên ngựa kẻ chia bào
Rừng
phong thu đã nhuốm màu quan san
Dặm
hồng bụi cuốn chinh an
Trông
người đã khuất mấy ngàn dâu xanh
Người
về chiếc bóng năm canh
Kẻ
đi muôn dặm một mình xa xôi
Vừng
trăng ai xẻ làm đôi
Nửa
in gối chiếc, nửa soi dặm trường
Dù
Thúc Sinh sau này có “thấp cơ thua trí
đàn bà”, bị vợ khống chế và hành hạ mà không kêu ca gì được, chỉ vì sự quanh co
giấu giếm, không nghe lời căn dặn của Thúy Kiều, thì chàng vẫn là một người yêu
thương Kiều thật lòng. Chàng vượt qua cả thói thường, cưới một “gái điếm (con
đĩ)” về làm vợ. (Lời Thúc ông mắng : “Đành rằng có lấy vợ bé đi nữa, thì cũng
không nên lấy hạng gái điếm cơ mà” – Truyện Kiều đối chiếu, trang 255). Nguyễn
Du cảm thông với Thúc Sinh nhiều hơn là chê trách chàng. Một số nhà nghiên cứu
cho rằng nhiều chỗ trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết bằng tất cả tấm lòng
yêu ghét. Nhà thơ như nhập thân vào nhân vật. Điều này hoàn toàn đúng. Nếu
không yêu mến, cảm tình Thúc Sinh thì Nguyễn Du không thể viết hai câu thuộc
loại tuyệt bút về mùa thu :
Long
lanh đáy nước in trời
Thành
xây khói biếc, non phơi bóng vàng
Đây
chính là hai câu tả cảnh. Nhưng là cảnh được nhìn bằng con mắt của chàng Thúc.
Chàng nhớ thương Kiều nhưng chưa biết lấy lí do gì để về Lâm Tri. Thì bỗng
nhiên được sư tử Hà Đông gợi ý phải về thăm, chăm sóc cha. Thế là Thúc Sinh ta
hăm hở lên đường:
Được
lời như cởi tấc son
Vó
câu thẳng ruổi, nước non quê người
Long
lanh đáy nước in trời
Thành
xây khói biếc, non phơi bóng vàng
Cảnh
bao giờ cũng là cảnh phản ánh tâm trạng của con người như Nguyễn Du đã tổng kết
: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cảnh đẹp ấy là phản ánh tâm trạng khấp khởi, mở cờ, hớn hở
của Thúc Sinh khi được quay trở lại với
Kiều “hương đượm, lửa nồng”.
Chính vì Thúc Sinh quan trọng với đời
Kiều như vậy; cũng chính vì Nguyễn Du cảm tình, cảm thông với chàng Thúc, cho
nên ông để cho Kiều khi nhớ nhà và người thân, không hề bỏ quên chàng.
1633 Sắn bìm chút phận con con
1634 Khuôn duyên
biết có vuông tròn cho chăng
1785 Lâm Tri
chút nghĩa đèo bòng
1786 Nước non để chữ “tương phùng” kiếp sau
2241 Tiếc thay
chút nghĩa cũ càng
2242 Dẫu lìa ngó
ý còn vương tơ lòng
Xin phép lưu ý bạn đọc rằng ba lần nhớ
này là 3 trong 4 lần Kiều nhớ nhà và nhớ
người thân không hề có trong KVK. Đây là sáng tạo của riêng Nguyễn Du. Và như
thế, thêm một chứng cớ để chúng ta thấy Nguyễn Du không xem thường, không xem
khinh chàng Thúc, mặc dù chàng có nhược điểm rất lớn là sợ vợ cả, bất lực,
không làm gì để giải thoát được cho người yêu khỏi sự đày đọa thâm độc của Hoạn
Thư.
Tấm lòng ưu ái của Nguyễn Du với Thúc
Sinh còn thể hiện rất rõ trong đoạn báo ân báo oán của nàng Kiều ( Xin xem so
sánh của chúng tôi ở phần thứ hai). Ở
đây thiết tưởng cần nhắc lại tóm tắt:
Nguyễn Du đã để cho quân của Từ Hải “Giữ
giàng họ Thúc một nhà cho yên”, không để Thúc ông và Thúc Sinh bị kiện tướng
Lôi Phong bắt giải vào nộp cho Từ Hải. Đặc biệt là nhà thơ đã để cho Thúc Sinh
được báo ơn đầu tiên. Những lời lẽ của Thúy Kiều với Thúc Sinh thật trân trọng,
mà lễ vật thì vô cùng hậu. Điều này
không hề có trong KVK.
Qua những so sánh và phân tích trên,
chúng ta thấy nhân vật Thúc Sinh của Nguyễn Du khác với Thúc Sinh của Thanh Tâm
Tài Tử. Nguyễn Du dù sao cũng trân trọng mối tình của chàng, lược bỏ những gì
không đẹp ở chàng. Đặc biệt là chăm chút, ưu ái đối với mối tình của chàng với
nàng Kiều. Dù tình cảnh chỉ là phận lẽ mọn, nhưng Thúc Sinh yêu mến Kiều thực
lòng. Chỉ vì quá sợ vợ, không dám cứu nàng. Và điều quan trọng nhất là
Nguyễn Du để cho nàng Kiều không bao giờ quên mối tình của chàng, báo ơn cho
chàng còn trước cả mụ quản gia và vãi Giác Duyên. Vì thế mà việc
“khinh
bỉ” Thúc Sinh chỉ là việc của Thánh Thán với Thúc Sinh của Thanh Tâm Tài Tử,
quyết không phải là thái độ của Nguyễn Du và bạn đọc Việt Nam.
Có thể điều này sẽ làm bạn đọc ngạc nhiên, nhưng chúng tôi
cho rằng Thúc Sinh cũng là nhân vật kí thác một phần tâm sự của Nguyễn Du. Các
nhà nghiên cứu đã nói đến Thúy Kiều, vì cuộc đời Kiều phải đi làm điếm về thân
xác, có thể cũng là một sự tương hợp với cảnh Nguyễn Du phải làm “điếm” về chính
trị theo quan niệm phổ biến đương thời “trung
thần bất sự nhị quân”. Nguyễn Du trung thành với nhà Lê, từng có hành động chống
Tây Sơn, nhưng rốt cuộc phải làm quan cho nhà Nguyễn “hàng thần lơ láo phận mình
ra đâu”. Nhưng tâm sự và kí thác của Nguyễn Du không chỉ ở Thúy Kiều. Từ Hải cũng
là nhân vật thể hiện mong muốn của Nguyễn
Du. Không phải chỉ là việc “chọc trời khuấy nước” mà là việc thực thi công lí ở
đời, việc trừng trị những kẻ xấu, kẻ ác chà đạp lên con người tài hoa mà Nguyễn
Du ngưỡng mộ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc khẳng định Thúy Kiều là bản thân cuộc sống,
Từ Hải là mơ ước về cuộc sống. Cả hai đều thể hiện những mơ ước, gửi gắm và kí
thác của Nguyễn Du. Tuy nhiên, có lẽ nói như thế đúng mà chưa đủ. Còn nhân vật
Kim Trọng thì sao? Kim Trọng có phải là nhân vật đứng ngoài sự quan tâm và kí
thác của Nguyễn Du? Chúng tôi không cực đoan như Đinh Bá Anh khi cho rằng Kim
Trọng mới là nhân vật vĩ đại của Nguyễn Du, Kim Trọng mới chính là nhân vật mà
Nguyễn Du dụng công : “không phải Thúy
Kiều, mà Kim Trọng mới là nhân vật văn chương “ruột” của Nguyễn Du. Kim Trọng
mới là nhân vật khó xây dựng nhất, được dụng công nhiều nhất, và những trường
đoạn có Kim Trọng mới là những trường đoạn trừu tượng, sâu thẳm, đau đớn và bí
ẩn nhất trong Đoạn trường
tân thanh” . (Kim Trọng
: nhân vật văn chương vĩ đại của Nguy ễn
Du – Đinh Bá Anh, trang web Học thế nào).
Không phải là nhân vật văn chương “ruột”, nhưng Nguyễn Du có kí thác lòng mình
trong Kim Trọng là lẽ đương nhiên. Chỗ này thì tác giả Đinh Bá Anh có lí : “Ở
mặt này,
Nguyễn Du không thể không cảm thấy ngán
ngẩm cho bản thân; nhưng ở mặt khác, ông lại có niềm tin của người trí thức.
Ông không thể bẻ gãy bạo quyền; đối với cái ác, ông bất lực; nhưng ông thấu
hiểu và đề cao nhân phẩm”.
Song liệu
Nguyễn Du có th ể hiện tâm trạng mình trong anh chàng Thúc Sinh nhu nhược? Không
ai dám quả quyết rằng hoàn toàn không. Thúc Sinh yêu mến Kiều, yêu mến cái đẹp,
nâng niu, trân trọng cái đẹp. Nhưng chàng nhu nhược và bất lực. Chàng chỉ có
thể bó tay mà “trông vào đau ruột, nói ra
ngại lời”. Nguyễn Du cũng có một chàng Thúc ở trong lòng. Chính vì thế mà
nhà thơ cảm thông, thương mến, và làm cho hình ảnh chàng Thúc có phần đáng
trách, nhiều phần đáng thương. Có thể nói rằng Thúc Sinh cùng với ba nhân vật
khác là Thúy Kiều, Từ Hải, Kim Trọng đều
là nhân vật kí thác tâm sự và tấm lòng của
Nguyễn Du, tuy mức độ có khác nhau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét