ĐÔI LỜI GÓP THÊM CỦA NGUYỄN KHÔI
VỀ BÀI THƠ “CHUNG”
CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
*
CHUNG
-
Tặng Quỳnh Hương -
Em có cần
anh không?
Nếu cần anh
hãy cùng anh chung sống
Gạo nấu
chung nồi
Chăn trùm
chung gối
Ta chia
chung ánh mắt nụ cười...
Đừng ngại em
ời...
Giường nhà
anh đủ dài, đủ rộng
Chăn nhà anh
đủ ấm, đủ nồng
Ta khêu ngọn
lửa hồng
Ta nối câu
quan họ
Ta bện mây
với gió
Kết thành
thuyền chơi trăng...
Em sẽ là
buồm căng
Anh sẽ là
gió lộng
Thuyền trăng
mình thơ mộng
Dập dìu giữa
biển xanh
Em. Nào, về
với anh!
*.
Hà Nội, trưa
25 tháng 04. 2016
ĐẶNG XUÂN
XUYẾN
LỜI BÌNH của Nguyễn Khôi
Nhân đọc bài ĐẾN VỚI
BÀI THƠ “CHUNG” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN của nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm, Nguyễn Khôi
tôi có đôi lời “góp thêm” về bài thơ “CHUNG” của Đặng Xuân Xuyến.
Bài thơ có 2 câu HAY nhất, đó là
"tứ" thơ - là rường cột của bài thơ:
Ta bện mây với gió
Kết thành thuyền chơi trăng
Một "tứ" thơ lạ, một sáng tạo độc
đáo. Nó thơ mộng nhưng cũng thầm bảo: đằng sau cái thơ mộng là biển khổ cuộc
đời đấy, có dám chung lưng đấu cật "Vượt biển" thì hãy về với anh?
Nhà thơ Nguyễn Khôi
|
Chuyên mục
Thứ Ba, 31 tháng 7, 2018
Nhà thơ Nguyễn Khôi góp lời bàn bài thơ CHUNG
Thứ Hai, 30 tháng 7, 2018
Ba lần Hà Nội
BA LẦN - HÀ NỘI
Vũ Công Hoan
1960
Như nai con ngơ ngác
Giữa Nghi Tàm biếc xanh
Lên Thủ Đô học chữ
Mở đầu cuộc mưu sinh.
Gã nhà quê vụng dại
Chốn phồn hoa thị thành
Biết thế nào là nhục
Biết thế nào là vinh.
Ôi những ngày đói góp
Ôi những đêm đau đầu
Tháng vài đồng học bổng
Dép rọ, quần áo nâu....
1981 - 1991
May mắn
về nguyên vẹn
Qua hai cuộc chiến tranh
Đồng hương và đồng nghiệp
Kẻ mất, người thương binh....
Có ngờ đâu lần nữa
Lại về với Ba Đình
Mười năm C mười bốn(cục địch vậnTCTT)
Ra vào ba
cổng thành.
Sống lầu son gác tía
Nhớ phên nứa giữa rừng
Vắt chui vào trong tất
Hút máu sưng tấy chân.
Nhà văn Vũ Công Hoan
Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2018
PHÂN BIỆT THƠ VÀ VĂN VẦN
PHÂN BIỆT
THƠ VÀ VĂN VẦN
NGUYỄN VŨ TIỀM-(Trả lời phỏng vấn
của Báo Giáo dục & Thời đại).Tôi gọi văn vần là chỉ chung những bài “giống
như thơ” nhưng gần với ca dao, hò vè, tấu, diễn ca hơn là thơ. (Ca dao, hò vè,
tấu, diễn ca… là những thể loại văn học mà đa phần có nguồn gốc từ thời chưa có
văn học viết).
Phóng viên (PV): Thưa
nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm, trong cuốn “Nghìn câu thơ tài hoa Việt Nam” xuất bản
năm 2000 và sau đó tái bản nhiều lần, ông có nêu tiêu chí của thơ là: -Xúc cảm
khác thường -Suy nghĩ khác thường -Cách nói khác thường. Gọi tắt là X-S-C. Qua
hơn mười năm, hiện nay phong trào sáng tác thơ phát triển rất đông đảo, tiêu
chí “khác thường” này có còn phù hợp không?
Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm (NVT): Khi
đọc cuốn sách Nghìn câu thơ tài hoa Việt Nam, Giáo sư Hoàng Như Mai
viết bài đăng báo Văn Nghệ, Hội Nhà Văn Việt Nam, có biểu dương bài đề dẫn của
tôi trong cuốn sách ấy, trong đó có tiêu chí về thơ mà bạn vừa nói đến, tất
nhiên là từ “khác thường” hiểu THEO CHIỀU MỸ CẢM. Tôi nghĩ, dù thời gian trôi
đi, tiêu chí ấy vẫn nguyên giá trị.
PV: Nhưng
nhiều tập thơ (nhất là ở các địa phương) được in ra nhìn chung là có sao viết
vậy, hình ảnh câu chữ rất “bình thường”, tiêu chí “khác thường” sao còn phù hợp
nữa?
NVT: Nếu
một bài thơ mà “có sao viết vậy” thì là văn vần chứ không phải
thơ, nó chỉ giống như thơ mà thôi.
PV: Ông có
thể cho bạn đọc biết rõ hơn về sự khác nhau giữa thơ và văn vần?
NVT: Tôi
gọi văn vần là chỉ chung những bài “giống như thơ” nhưng
gần với ca dao, hò vè, tấu, diễn ca hơn là thơ. (Ca
dao, hò vè, tấu, diễn ca… là những thể loại văn học mà đa phần có nguồn gốc
từ thời chưa có văn học viết).
Nhưng thế nào là thơ? Hầu như mỗi
người làm thơ đều có tiêu chí riêng, định nghĩa riêng, tìm câu trả lời chung là
rất khó. Vì thế, xin nêu ví dụ phân biệt thơ và văn vần.
Hai câu thơ quen thuộc và rất hay
của nhà thơ Chế Lan Viên:
“Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt
Gỗ trăm cây đều muốn hóa nên trầm”
Gié lúa và cây gỗ là thứ vô tri, nó
đâu biết mơ ước đến những điều cao siêu ấy, mà chính là cảm xúc, ý tưởng của
nhà thơ về chúng mà thôi. Ở hai câu này nhà thơ dùng thủ pháp nghệ thuật nhân
cách hóa.
Nếu làm văn vần chỉ cần viết:
“Lúa vàng hạt mẩy đồng ta
Trầm hương gỗ quý, bao la trên rừng”
Văn vần thường tả chân, phản ánh
trực tiếp sự vật, phù hợp với đề tài người thật việc thật.
Nhà thơ Trương Nam Hương có hai câu
thơ về uống rượu với bạn:
“Nâng ly bạn dốc trời xanh cạn
Quơ đũa khà say gắp tiếng chim”
Nếu là văn vần chỉ cần viết như bữa
rượu bình thường:
Nâng ly bạn dốc vài hơi cạn
Quơ đũa khà say gắp thịt bò (hoặc
thịt gà...).
CHỜ...
CHỜ...
“Tôi nghe” “Chuyện của gã khờ”
“Nhủ lòng” đời chẳng như “Mơ”
Thôi kệ “Chàng lùn nể vợ”
“Ngược dòng” về cõi “Ngu ngơ”.
“Đêm” nay “Người ơi... người ở”
“Thức” chờ “Tiệc rượu trong mơ”
“Tiếng khèn” nối dài nỗi “Nhớ”
“Người thơ” “Khờ” đến bao giờ?
-------
(“...”): tên các bài thơ, truyện
ngắn của Đặng Xuân Xuyến
*
Hà Nội, chiều 17 tháng
07.2018
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Thứ Bảy, 28 tháng 7, 2018
Trao đổi về bài " Đồng dao cho người lớn" ( tiếp theo)
vunhonb.blogspot.com Sau khi đăng bài "Thảo luận về Đồng dao cho người lớn" của Nguyễn Trọng Tạo, có 6 lời bình ( 18 tháng 7 năm 2018), tác giả Phạm Đức Nhì viết một bài trao đổi lại. Vì bài quá dài nên không thể đăng vào mục bình luận. Chúng tôi giới thiệu bài viết này. Cám ơn tác giả Phạm Đức Nhì đã thẳng thắn trao đổi.
Kính bác Vũ Nho,
Phần trả lời của tôi dài quá,
khó đưa vào chỗ bình luận.
Nhờ bác đưa thẳng vào
bài.
Cám ơn bác.
PĐNhì
Phạm Đức Nhì
Một Vài Tra Cứu Về Đặc Tính Của Vè
Để nói có
sách, mach có chứng, tôi đã vào một số trang Web Văn Học và ghi lại mấy nhận xét về đặc tính
của vè như sau đây:
1/
Theo Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, vè là
chuyện khen chê có ca vần.
2/ Những người
đặt
vè, bẻ
vè, nói vè phần
nhiều
thuộc
tầng
lớp
dưới
trong xã hội.
3/ Vè mang tính thời
sự,
các sự
kiện
trong quá khứ
ít được
vè quan tâm. Vè xuất
hiện
tức
thời,
nắm
bắt
nhạy
bén sự
việc,
sự
kiện,
ghi nhanh, rồi
truyền
đi để
gây dư luận.
4/
Vè xuất
hiện
nhằm
đáp ứng
sự
phản
ánh tức
thời
một
sự
việc,
sự
kiện,
ngôn ngữ
vè mộc
mạc,
đơn
giản,
không trau chuốt,
gọt
dũa, phần
lớn
các bài vè lại
có vận
mệnh
ngắn
ngủi.
5/ Phần lớn các bài vè lại có vận mệnh ngắn ngủi, thời gian cần thiết để đạt tới một hình thức hoàn chỉnh, trau chuốt ít có được.
Kết hợp lại cho dễ hiểu, những người nghiên cứu về vè, viết về vè có những nhận xét sau đây:
1/ Những người đặt vè, bẻ vè, nói vè phần nhiều thuộc tầng lớp dưới trong xã hội.
Vì là tầng lớp dưới của xã hội nên tác giả của vè về kiến thức và “tay nghề” văn chương thường non nớt nếu so sánh với các thi sĩ làm thơ. Ở cái thời vè phát sinh và
sau đó là phát triển, thi sĩ làm thơ phần nhiều thuộc giới khoa bảng, thành đạt trên đường học vấn. Hoặc nếu lận đận bước đường thi cử thì cũng là những Ông Đồ làu thông kinh sử, nắm vững quy luật sáng tác các thể loại kinh nghĩa, chiếu, biểu, phú, văn sách
… và đặc biệt là các loại thơ.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)