Thứ Ba, 4 tháng 10, 2022

ĐI TÌM DẤU VÂN CHỮ - MỘT CÁCH TIẾP CẬN TÁC PHẨM THÚ VỊ

ĐI TÌM DẤU VÂN CHỮ - MỘT CÁCH TIẾP CẬN TÁC PHẨM THÚ VỊ

                                               Vũ Nho


Chúng ta đã quen với cách tiếp cận tác phẩm có tính cổ điển là phê bình văn chương. Chỗ hay thì khen, chỗ dở thì chê. Hoàn toàn phụ thuộc vào chủ quan của người viết. Rồi dần dần có sự du nhập  các lí thuyết và kiểu phê bình phương Tây, chúng ta tiếp cận tác phẩm  theo thi pháp học, theo kí hiệu học, theo phân tâm học, theo phong cách học… Các bài viết của những người phê bình, nghiên cứu hiện nay đều có cả những yếu tố trên chứ ít người chuyên theo một lí thuyết.

          Tuy nhiên với tác giả Hoàng Kim Ngọc, chúng tôi nhận thấy nữ  tác giả “đi tìm dấu vân chữ” tức là đi tìm phong cách của tác giả   in trên tác phẩm của mình. Nếu vân tay mỗi người mỗi vẻ để phân biệt các cá thể, thì “vân chữ” cũng là của riêng người sáng tạo văn học nghệ thuật. Chữ hay ngôn ngữ là của chung cho mọi người. Nhưng “vân chữ” là dấu ấn sáng tạo cá nhân trong tác phẩm của người viết.

          Tác giả Hoàng Kim Ngọc trong 20 bài viết của mình đã nhất quán trong cách tiếp cận và bình giá. Có thể có bài nghiêng về nghiên cứu, khảo sát công phu (Thi pháp ngôn ngữ thơ Dương Kiều Minh, Thiên tính nữ trong Giấc mơ sông Thương của nguyễn Phúc Lộc Thành, Ngôn ngữ trong tập thơ Giấc mơ sông Thương, Đồng sáng tạo để giải mã văn bản thơ Hoa giấu mặt của Mai Văn Phấn) ; có bài nghiêng về phê bình đánh giá như Cảm nhận về tập thơ Lữ hành của Hữu Đạt,Tín hiệu thẩm mĩ trong Chút sen còn lại của Hồng Thanh Quang, Bản giao hưởng nhiều bè trong tập thơ Chiếc giỏ mây trắng, Nghĩ về viết ngắn và những “viết ngắn” trong Trần gian muôn nỗi của Văn Giá. Nhưng tất cả đều dựa trên thi pháp,  các thủ pháp tu từ cú pháp, tu từ từ vựng, thủ pháp lạ hóa,… mà người viết vốn là một chuyên gia.

          Với cảm nhận cá nhân, tôi thấy có 2 cây bút tiếp cận tác phẩm văn chương khác với mọi người hiện nay là PGS.TS. Hữu Đạt và PGS.TS. Hoàng Kim Ngọc. Cả hai đều là nhà ngôn ngữ học và tiếp cận tác phẩm văn chương theo phong cách học. Tác giả Hữu Đạt  đã thành công và tiếp theo là Hoàng Kim Ngọc.

          Ấn tượng mạnh nhất của tôi là với những bài khảo cứu nặng về tính chất nghiên cứu như đã kể ở trên. Chỉ riêng một chi tiết Hoàng Kim Ngọc thống kê Dương Kiều Minh đã sử dụng 807 từ láy và dạng láy khác nhau, tần số xuất hiện là 2.022 lần. So với Nguyễn Duy dùng 728 từ láy và tần số là 1247 lần (tr. 31) cho thấy sự công phu, tỉ mỉ của người làm nghiên cứu. Chính thống kê tỉ mỉ và chính xác đã làm cho tác giả có những kết luận bất ngờ nhưng khả tín về Dương Kiều Minh: “Nhưng Dương Kiều Minh lại có một cảm quan thẩm mĩ riêng : càng lạnh càng đẹp, càng buồn càng đẹp “Càng giá lạnh vẻ đẹp càng trong suốt” (tr.510), Ồ, trăng tháng mười như khối ngọc giữa nền trời lạnh (tr.343), Vẻ ảm đạm của chiều thu thật đẹp (tr.507). ( tr. 24).

          Tôi đặc biết chú ý tới bài viết ngắn nhưng đầy sức thuyết phục “Về một ý kiến xung quanh vần luật thơ Lục bát của Nguyễn Du và Nguyễn Duy” ( tr. 126).

       Không rõ   Ngọc Thiên Hoa làm gì, ở đâu. Nhưng cái ý muốn “đốt đền”, muốn chê bai nhà thơ Nguyễn Du vĩ đại, và nhà thơ Nguyễn Duy có hẳn một tập thơ hơn trăm bài lục bát được bạn đọc ngưỡng mộ, đã làm cho người này liều lĩnh đưa ra những nhận định vô cùng  khiếm nhã : “Không biết sư ông Nguyễn Tuân cho Nguyễn Du là loại thi sĩ nào đây? […] còn với Nguyễn Duy thì “Nhìn màu sắc tô đậm ( cưỡng vận) của người viết bài này, nào ai có thể cho đây là bài thơ đúng luật 6/8?, chết liền(…)”. ( tr. 127).

Hoàng Kim Ngọc rất  bình tĩnh, từ tốn cho kẻ ngông cuồng biết những gì (anh hay chị ta) nói là hàm hồ, chẳng có cơ sở khoa học nào. Bằng sự phân tích thấu đáo của người làm ngôn ngữ học, Hoàng Kim Ngọc đã chỉ ra rằng Ngọc Thiên Hoa đã hoàn toàn SAI khi viết về bài lục bát “Tre Việt Nam” của Nguyễn Duy : “Tất cả bài thơ “Tre Việt Nam” có 30 câu với 15 cặp lục bát, bao gồm 15 cặp âm tiết gieo vần, toàn bài gieo vần đều đúng nguyên tắc ngữ âm học (V.N. nhấn mạnh)” (tr. 131). Điều thú vị là Hoàng Kim Ngọc cũng thừa nhận có cặp lục bát  có vẻ “cưỡng vận” là  xanh/ mình (Nguyễn Duy) và than/viên (Nguyễn Du). Nhưng người ta không thấy “ngang tai”. Tác giả có thêm phát hiện là “phải chăng những âm tiết gieo vần với nhau thì âm cuối và thanh điệu có vai trò quyết định chính (?)” (tr. 132).

          Có thể nói ngòi bút nghiên cứu phê bình của Hoàng Kim Ngọc nghiêng về nghiên cứu, phê bình tác phẩm thơ. Nhưng khi viết về văn xuôi, tác giả cũng có những khám phá riêng, có dấu “vân chữ” Hoàng Kim Ngọc. Với tiểu thuyết “Cõi nhân gian” của Nguyễn Phúc Lộc Thành, nhiều nhà nghiên cứu phê bình đã viết (Sương Nguyệt Minh, Bùi Việt Thắng, Tạ Duy Anh, Vũ Nho,…) Hoàng Kim Ngọc vẫn có cách tiếp cận riêng thông qua ba chữ Tham, Sân, Si và bi kịch của con người. Có thể nói đó là một bài viết thành công về cuốn tiểu thuyết dài hơi, dài tập. Khi viết về cuốn “Trần gian muôn nỗi” của Văn Giá, Hoàng Kim Ngọc  đã bàn về “viết ngắn và những cái viết ngắn”  với những nhận xét, đánh giá sắc sảo, đáng tin cậy.

          Giọng văn của Hoàng Kim Ngọc ngay cả khi tranh luận, vẫn giữ được vẻ  điềm đạm, giàu chất văn và giaù nữ tính. Tất cả đều bằng giọng nhẹ nhàng,  mềm dẻo, giàu hàm lượng khoa học. Hoàng Kim Ngọc thuyết phục người đọc bằng sự tỉ mỉ, thực chứng, bằng một vốn đọc rộng cổ kim, đông tây. 130 tài liệu tham khảo cho thấy sức đọc rộng của tác giả. Và khi bàn về bất cứ một hiện tượng câu thơ hay hình ảnh thơ, tác giả đều có những liên tưởng so sánh thú vị bởi những dẫn chứng được đưa ra đúng lúc, đúng chỗ, đúng ngữ cảnh.

       Cũng có thể thấy tác giả ủng hộ những tìm tòi của Nguyễn Phúc Lộc Thành về sự cách tân Lục bát của tác giả Giấc mơ sông Thương. Tuy vậy, có lẽ cũng cần nhắc nhở tác giả lục bát  rằng không phải các từ anh tạo lập đều xuôi tai và được mọi người chấp nhận (tr.133). Chúng ta đều biết có những cặp từ trong tiếng Việt xuôi và ngược đều như nhau. Nhưng có một số từ không bao giờ nói ngược. Ví như nhàu nhĩ, mà viết thành nhĩ nhàu là một sự cưỡng ép! Cũng như thế mượt mà không thành mà mượt, vẫn vũ không thể thành vũ vần, thừa thãi – thãi thừa, nõn nà – nà nõn… Vì sức ép  vần luật của lục bát nên buộc phải như vậy. Nếu có nghĩa thì chỉ là nghĩa ép, nghĩa tạm thời trong ngữ cảnh mà thôi!

       Khi trích dẫn Đỗ Trọng Khơi, người viết cũng sơ suất bỏ qua cái lỗi  của tác giả về Quân trung từ mệnh tập.  (trang 234).  Lại nữa  có câu “Ngữ bất   kinh luân , tử bất hưu” . KINH NHÂN chứ không phải là KINH LUÂN! (trang 237). Không rõ lỗi biên tập hay vi tính.

           Tập sách gồm 20 bài viết từ năm sớm nhất là 2010 và bài muộn nhất là 2022. Hoàng Kim Ngọc còn công bố cuốn  Từ dân gian đến nhân gian, nxb Khoa Học Xã Hội gồm 15 bài viết từ năm 1998 đến năm 2022. Như vậy tính bình quân từ 1998 đến năm 2022, 15 năm tác giả  viết và công bố 35 bài. Tất nhiên, còn có các bài mà tác giả sẽ công bố trong tập sách khác.  Thêm nữa, trong thời gian đó tác giả    còn biên soạn và chủ biên 7 giáo trình tiếng Việt, Ngôn ngữ văn chương. Một người làm việc  cẩn thận, cần mẫn  với hiệu suất khá cao.

     Cách tiếp cận tác phẩm của Hoàng Kim Ngọc rất linh hoạt,  sáng tạo. Cùng là thơ, tiểu thuyết, tiểu thuyết giả tưởng, truyện ngắn,  biên khảo, nhưng cách dẫn nhập và phân tích không hề giống nhau. Thành ra luôn đem đến sự tò mò, thích thú cho người đọc. Viết nghiên cứu phê bình văn học tinh tế, chặt chẽ và có nhiều phát hiện như Hoàng Kim Ngọc là một điểm sáng trong giới cầm bút nghiên cứu phê bình hiện nay.

                                                Hà Nội, 24 tháng 9 năm 2022  

        

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét