Thứ Bảy, 1 tháng 12, 2018

NGUYÊN QUANG THUYÊN VỚI TRƯỜNG CA “LÀNG CỦA MUÔN ĐỜI”



NGUYÊN QUANG THUYÊN VỚI TRƯỜNG CA “LÀNG CỦA MUÔN ĐỜI”

                 Đọc “Làng của muôn đời” của Nguyễn Quang Thuyên, NXB Hội Nhà Văn, 2015

                                                            Vũ Nho

Làng ở Việt Nam là một đơn vị hành chính  xã hội có từ bao đời. Làng gắn với quê thành ra làng quê với mái đình, cây đa, với lễ hội dân gian. Làng trở thành một yếu tố từ ghép với tất cả không gian, cảnh vật, con người : ao làng, đình làng, đường làng,  cổng làng, đồng làng, giếng làng,  người làng, dâu làng, rể làng,  dân làng, lệ làng.  Lệ làng  chặt chẽ và nghiêm có khi còn hơn cả những luật lệ hành chính thời phong kiến đến nỗi “ Phép Vua thua lệ làng”. Chính vì LÀNG quan trọng như thế, nên nhà văn Ngô Tất Tố mới có phóng sự “Việc làng”, nhà văn Kim Lân mới có truyện ngắn “Làng”, nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú có tiểu thuyết “Đất làng”, nhà văn Ngô Ngọc Bội có tiểu thuyết “Ao làng”, nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn có truyện ngắn “ Chuyện làng Gành”, tiểu thuyết “Làng Cói Hạ”, nhà văn Lê Lựu có tiểu thuyết “Chuyện làng Cuội”… Làng sẽ mãi mãi là một đề tài phong phú, mời gọi các nhà văn thử bút.

Tâm thức làng ăn sâu, lắng đọng trong mỗi tâm hồn con dân nước Việt, bởi vậy viết bản trường ca “Làng của muôn đời” là một việc làm có ý nghĩa thời sự và lâu dài. Có lẽ là người quan tâm đến lịch sử, hiểu lịch sử đất nước  (Ngoài Hội viên Hội nhà văn Việt Nam, tác giả còn là Hội viên hội Khoa học Lịch sử Việt Nam) và  hiểu vai trò của “làng” trong  đời sống cộng đồng nên tác giả Nguyễn Quang Thuyên mới chọn trúng và đúng một đề tài hay như thế. Vấn đề là triển khai  đề tài trong thể loại trường ca như thế nào thôi.

Trong lịch sử văn học dân tộc, chúng ta có những diễn ca lịch sử, những bài thơ dài, có những bản anh hùng ca của các dân tộc ít người Tây Nguyên, có những truyện thơ nôm khuyết danh và có tác giả… Nhưng nếu xét kĩ ra, trường ca như một thể loại văn học viết thì chỉ mới xuất hiện trong những năm gần đây, sau khi chúng ta được tiếp xúc với những trường ca dịch từ nước  ngoài. Tuy vậy, trường ca cũng được rất nhiều nhà thơ dụng bút. Ngay tác giả Nguyễn Quang Thuyên, trước khi viết trường ca này, anh đã viết truyện thơ “Làng Nung của tôi” (2000), viết trường ca Thị trấn vùng đồi  trong tập “Chiếc gương cuộc đời” (2001), “Những dấu chân huyền thoại” (2009), “Trường ca Khát vọng biển” ( 2013). Như vậy  “Làng của muôn đời” được kế thừa nội dung, hình thức của truyện thơ và ba trường ca chứ không phải là tác phẩm đầu tay. Và dĩ nhiên, tác giả cũng được kế thừa kinh nghiệm của một loạt những trường ca thành công trong dòng chảy thi ca Việt những năm gần đây.

Làng, xét về không gian thì không lớn lắm. Làng nhỏ hơn xã, dân số không quá nhiều ( dù có là làng nghề, hay là làng ven thị “bờ xôi ruộng mật” chăng nữa). Để khắc phục giới hạn về không gian Địa lí, tác giả đã khai thác không gian Lịch sử lâu đời của của làng mình. Các chương Gốc làng, Mẹ của ngày xưa, Bên đền Thánh Mẫu  và chương mở đầu Đối thoại lặng im đã cho thấy làng Nung có một bề dày lịch sử “truyền ngôn”:

Làng Nung của tôi

Nghiêng nghiêng xứ Đoài

Nơi hợp lưu sông Đà đen và dòng Thao giang

Tháng ngày kiếp đời ngầu ngầu sắc đỏ

Làng có tự khi nào

Người già nhất cũng không nhớ rõ

chỉ lõm bõm truyền ngôn

                              ( trang 10)




Nhưng có một nhân chứng cho biết làng có từ rất lâu rồi. Ấy là cay đa làng nghìn tuổi:

Năm bão to

Cây đa ngàn năm bật rễ

Già trẻ thức thâu đêm

                   chống, néo, buộc, chằng

Neo giữ hồn làng

                                      ( trang 12)

Dù làng làm nghề gốm nhưng cũng giống như bao  làng quê khác, làng Nung là một làng nghèo “nối đời bám rễ vào sông/ bám vào chông chênh đói rét/ làng như con choi choi/ bập bềnh mặt nước”. Cái đói được thể hiện trong đận giáp hạt  cả làng vào rừng:

          Tháng ba giáp hạt

          cả làng vàng mắt vào rừng

          tìm quả vả, quả sung

          đào củ nâu củ dáy

          Cạo vỏ thái miếng to ngâm vào nước muối

          thiếu muối thì đốt rễ cỏ tranh lọc lấy nước mà ngâm.

Phải đương đầu với những ngày đói kém, giáp hạt, làng còn phải đương đầu với thiên tai, lũ lụt. Những câu thơ thật ấn tượng về trận lụt tháng sáu:

          Lũ tháng sau dâng lút mái nhà

          trẻ con bồng  bềnh bè chuối

          bì bõm người lớn lội sau

          dạt vào gò, doi, mô, đống

nắng như trát lửa trên đầu

người chết xương vùi trong nước

người sống nào biết về đâu

vật vờ lùm tre gốc cỏ

Nhưng làng Nung vẫn dẻo dai, bền bỉ vượt qua tất cả, làng làm cuộc thiên di “đùm nhau vào núi”.

Tác giả đã viết về người Mẹ  của làng  như là nhân vật huyền thoại trong truyện cổ. Người mẹ của năm người con trai làm tướng của vua Hùng, người mẹ dạy dân làng trồng trọt, săn bắn. Và một người mẹ cụ thể là mẹ của mình, một con người bằng xương bằng thịt, sinh ra ở làng, “làm dâu  chị cả” ở làng, và làm một người dân bình thường “Mẹ không vào du kích/ mẹ không làm giao liên/ mà mòn vai nát bàn chân những buổi chợ phiên/ bán dầu dọc, bán sơn, bán chè/ mua thuốc, vải, giấy, diêm cho cha/ đưa lên vùng kháng chiến”. Nhưng người dân bình thường đó với tinh thần thượng võ, với lòng tự trọng,  lòng căm thù bọn giặc “bờm xơm” đã dùng đòn gánh đi chợ khiến cho “hai thằng tây đen đã toác đầu/ sã vai co cẳng chạy về đồn”.

Thấy rõ cách làm dày dặn trường ca về làng là việc tác giả đi sâu vào lịch sử làng Nung. Từ quá khứ xa mờ đến thời kì tiền khởi nghĩa (Đêm trước). Từ đó tiếp đến Cách mạng tháng Tám thành công ( Bình minh). Rồi tiếp theo là kháng chiến chống Pháp ( Lửa khói). Thế trận làng viết kĩ hơn về làng trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Chương Đối mặt cũng viết về cuộc chiến này và phần “ Những ngày náo nhiệt” viết về  làng trong giai đoạn kết thúc kháng chiến bằng “chiến dịch Điên Biên Phủ quân ta sắp mở”.  Rõ ràng nếu xét về lịch sử, tác giả có thể viết tiếp các chương làng Nung trong Cải cách ruộng đất, trong những ngày làm ăn hợp tác và trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Có lẽ sợ như thế sẽ dài và ôm đồm quá chăng, nên Nguyễn Quang Thuyên chỉ dừng lại ở cuộc khàng chiến chống Pháp thắng lợi? Hay tác giả định dành cho trường ca khác? Tuy vậy tác giả cũng hé mở cho thấy làng Nung trong thời buổi mở cửa của cơ chế thị trường. Có người ô tô, kính đen sang trọng nhưng  “khi nhắc về pho tượng đổ trong đình/ họ trầm ngâm đắn đo thăm dò/rồi lặng lẽ rút ra vài tờ bạc lẻ”. Tác giả không quên cảnh báo về nguy cơ của làng trước “những mánh lới bỏ thầu/ những toan tính bon chen phỉnh phờ và đố kị” :

Bao ruộng mật bờ xôi, dự án về xẻ thịt

Làng thuần nông khấp khởi (…) thoát nghèo

Ngót mười năm cỏ vẫn cứ mọc đầy

Làng không còn ruộng cấy

Sau lũy tre xanh

lấp ló nhì nhằng những văn minh đô thị

đang từng ngày bức tử nếp làng xưa!

                     Bên đền thánh mẫu, tr 38, 39

Không có một nhân vật nào của “làng” được viết kĩ ngoài  “Mẹ của ngày xưa” và “Mẹ”. Thấp thoáng các chiến sĩ trai làng nhập vào đoàn Bông Lau (Các anh về), một du kích ghi nhật kí (Nhật kí một đội viên du kích), các bà mẹ trong Hội mẹ chiến sĩ, các cô gái làng chờ đợi ngày chiến thắng gặp lại chàng dũng sĩ Bông Lau…Trong khi đó phía giặc Pháp, viên quan năm Sa- Puy được khắc họa khá chi tiết  bằng  nhiều  trang viết “Quan năm Sa –Puy mắt đỏ vằn như hai cục máu” ( 5 trang trong phần Lửa khói ), lại được tiếp tục nói đến trong Đối mặt với các phần “giấc mơ lạ” và “đền tội” ( 14 trang). Có lẽ đó là một dụng ý của tác giả khi nói về sự nham hiểm, điên cuồng, tàn bạo của kẻ thù làng Nung?

Có một số chỗ tác giả say sưa làm cho  không ít câu thơ mang tính chất diễn ca lịch sử, kể chuyện có vần. Đoạn thơ trong phần “Đối thoại lặng im” mà tác giả coi tiếng khóc là “tuyên ngôn  trẻ thơ/ Chỉ một mình tôi biết” có phần gượng ép khi gán những câu hỏi “liệu có thuộc về ta?” cho một đửa trẻ vừa chào đời với “cặp mắt ngáo ngơ”.  Một vài  chỗ từ ngữ chưa thật chắt lọc, so sánh thiếu chính xác : rồi đêm đêm mẹ rót vào tai con cho quên đi cái nhớ (  không thể hiểu là vì sao phải quên, và cái nhớ ấy là cái nhớ gì? Phải chăng mẹ kể chuyện để con quên đi cái đói? trang 76)  tia nắng tháng hai loe hoe như da người ốm ( tr. 101),  chân đất, răng đen,/sần sì như cổ tích ( trang 111)…

Phần kết thúc là “Làng của muôn đời”, cũng trùng với tên chung của tác phẩm. Ở đây tác giả muốn tổng kết, khái quát những suy ngẫm, chiêm nghiệm về làng, tình yêu làng, yêu cuộc sống của mỗi cá thể:

Không ai có thể đi qua cuộc đời hai lần

Không ai có thể chọn cho mình nơi sinh

Càng không thể cho mình có được quyền

chọn cha, chọn mẹ

nhưng một điều hiển nhiên

mọi người đều có thể

thắp cho mình một lối để yêu thương…

Viết trường ca “Làng của muôn đời” theo tôi hiểu đó là một cách thắp cho mình một lối để yêu thương của tác giả. Và  Nguyễn Quang Thuyên đã thành công. Giải nhì cuộc thi viết về  nông nghiệp và nông thôn của Hội nhà văn Việt Nam và Bộ Nông nghiệp, phát triển nông thôn ( 2010-2015) là con tem chất lượng cho tác phẩm.

                                            Hà Nội, 3/11/2018

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét