NGUYỄN ĐÌNH NHỮ dịch
thơ Nguyễn Du
寧 公 城
獨 上 高 山 眼 界 新 ,
英 雄 往 事 掛 江 津 .
一 城 上 下 盡 喬 木 ,
十 里 威 風 見 古 人 .
此 地 北 南 歸 一 軸 ,
當 時 井 燥 駐 三 軍 .
十 年 未 泄 男 兒 恨 ,
彈 劍 長 歌 對 白 雲 .
阮 攸
NINH CÔNG THÀNH
Độc thướng cao sơn nhãn giới tân,
Anh hùng vãng sự quải giang tân.
Nhất thành thượng hạ tận kiều mộc,
Thập lý uy phong kiến cổ nhân.
Thử địa bắc nam quy nhất trục,
Đương thì tỉnh táo trú tam quân.
Thập niên vị tiết nam nhi hận,
Đàn kiếm trường ca đối bạch vân.
Nguyễn Du
_____________________
Thành Ông Ninh tức lũy Đèo Ngang (Hoành Sơn cổ luỹ), một
thành luỹ xưa xây toàn bằng đá ở trên núi Hoành Sơn (theo dọc núi), thuộc phía bắc huyện Bình Chính, tỉnh Quảng Bình. Tương truyền thời Nguyễn Trịnh giao tranh, năm Thịnh Đức thứ 4 (1656) đời Lê Thần Tông, Trịnh Tráng sai con út là Ninh quận công Trịnh Tuyền vào đánh chúa Nguyễn, Trịnh Tuyền xây đắp thành lũy này làm căn cứ để tiến công, nên tục gọi là thành Ông Ninh.
Dịch nghĩa:
THÀNH ÔNG NINH
Một mình trèo lên núi cao, tầm mắt mới hẳn,
Chuyện cũ của người anh hùng vẫn còn, như bức họa treo nơi bến sông.
Trên thành, dưới thành, cây cao tầng tầng lớp lớp,
Nhìn xa mười dặm vẫn thấy oai phong người xưa.
Nơi đây từng là cái trục giữa nam, bắc,
Thuở ấy có giếng có bếp làm nơi đóng quân.
Suốt mười năm, ta chưa rửa được mối hận của nam nhi,
Hãy gõ nhịp vào gươm mà ca hát trước mây trắng!
Dịch thơ:
THÀNH ÔNG NINH
Một mình lên núi cảnh tươi hồng
Chuyện cũ anh hùng tạc bến sông
Trên dưới tường thành cây chất ngất
Tầm xa hào kiệt dáng oai phong
Nơi đây đường trục thông Nam Bắc
Thuở ấy ba quân có giếng trong
Mối hận mười năm chưa rửa sạch
Hát ca gõ kiếm dưới mây bồng.
N. Đ. N.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét