Thứ Năm, 9 tháng 4, 2015

THỊ MẦU của VƯƠNG TRỌNG với lời bình ĐƯỜNG VĂN

                      

                               T.S. Đường Văn
                 THỊ MẦU
                         VƯƠNG TRỌNG

Yếm đỏ buông lơi, núng nính cửa chùa,
Mắt lá liễu liếc đứt lời niệm Phật;
Bóng nắng tưởng táo chua ai rắc,
Lá khô dày, nhắc chiếu trải ổ rơm…

Chân bước đi, lưng đã muốn nằm,
Áo đang mặc, tay bao lần muốn cởi;
Thầy Tiểu ơi! Niết Bàn xa vời vợi,
Hạnh phúc thật gần, hạnh phúc ở em đây!

Từng tìm trong cõi tục, chẳng gặp Thầy,
Thì lần đến cửa thiền, không thể khác!
Má nóng bừng, đôi môi cháy khát,
- Vứt dùi, mõ đi, nắm cổ tay em!

- Đứng lên nào! Gác Mô Phật một bên,
Lời kinh kệ sánh với em sao được?
Em đang ngã và em đang chết,
Cứ tránh hoài, em biết vịn vào đâu?!

Sân chùa quay, tán đại nghiêng chao,
Chới với bàn tay, chới với lời liều lĩnh,
Nếu chú tiểu chẳng là Thị Kính,
Người đời sau sao hiểu được Thị Mầu?!
1995. VT
NGƯỜI ĐỜI SAU
SAO HIỂU ĐƯỢC THỊ MẦU?!
(Bình tán bài thơ Thị Mầu của Vương Trọng)
ĐƯỜNG VĂN
         Xưa nay, từng đã có không ít người làm thơ vịnh một trong những nhân vật đào lệch, đào lẳng nổi tiếng nhất trong vở chèo cổ dân gian Quan Âm Thị Kính: Thị Mầu trong cảnh Mầu ghẹo Tiểu Kính Tâm trên chùa. Tôi cho rằng bài vịnh Thị Mầu của Vương Trọng là bài thơ hay, có duyên; để lại ấn tượng trong cảm xúc người đọc vì nhà thơ xác định được đúng hướng tiếp cận và có những suy nghĩ, bình luận (cố nhiên, bằng hình ảnh thơ, khá mới mẻ và sâu sắc).

       Có những ý kiến dài miệng chê bai Thị Mầu lẳng lơ, đĩ thõa, lên chùa xấn xổ, sỗ sàng cợt ghẹo cả sư. Bị tiểu Kính Tâm từ chối quyết liệt, Mầu thất vọng ê chề, đành về nhà dan díu với gã trai cày - thằng ở. Hoang thai (tại sao lại hoang, khi cả làng biết rõ nó là sản phẩm của Nô?!) Thật nực cười và cố ý! Còn Thị Kính giả trai đi tu thì khổ ơi là khổ, oan ơi là oan, thương ơi là thương, xót sao mà xót!... Nhưng đó là cách cảm hiểu về những chuyện, những nhân vật với cảm xúc cũ mèm, từ lâu đã thành khuôn sáo cho 1 lối cảm luận, phân tích, bình phê hời hợt, giản đơn, thậm chí mang nặng tư tưởng thành kiến giai cấp. (Thị Mầu là con gái Phú ông – nhà giàu ở nông thôn, thuộc thành phần bóc lột, chỉ dưới địa chủ!)
       Ngược lại, cũng có những ý kiến hoàn toàn đồng tình, ca ngợi cô Thị Mầu – con gái Phú ông liều lĩnh nổi loạn, do bản năng dục tình tuổi trẻ chi phối dẫn đến sự làm liều, bất chấp hậu quả, trơ trẽn, trắng trợn, dám thách thức tất cả, chỉ để được thỏa cái ấy chuyện ấy! Nương theo triết lý dân gian cùng hành vi gái quê:
       - Lẳng lơ cũng chẳng hao mòn/Chính chuyên cũng để sơn son mà thờ!
       -  Ba cô đội gạo lên chùa/Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư. (Ca dao)
       Thị Mầu có lẽ là cô yếm thắm đa tình, táo tợn ấy chăng?! Xét cho cùng, Thị Mầu hạnh phúc hay Thị Kính hạnh phúc?
       Thị Kính được tiếng hiền thục, chăm ngoan, thủy chung nhất mực, lại xinh đẹp, dịu dàng. Vậy mà trong 1 thời gian ngắn 2 lần chịu án oan: án cầm dao giết chồng và án hoang thai. Ấy là chưa kể tội giả trai vào chùa đi tu, lừa sư, lừa Phật và tự mắc cái vạ vịt, phải chòn chõn nuôi đứa trẻ sơ sinh mà mẹ đẻ của nó cố tình bỏ rơi trước sân chùa để đổ diệt tiếng dâm ác cho chàng Tiểu giả quá vụng về ứng xử. Cuối cùng, sao bao thử thách trầm luân, oan trái, Thị Kính tu nên chính quả, thành Bồ Tát Quan Thế Âm nghìn mắt nghìn tay, thần thông quảng đại, ngồi tòa sen Niết Bàn ở Lạc Già Sơn, đời đời chuyên chú cứu nhân độ thế. Nhưng rút cục vẫn là người đàn bà có chồng mà chẳng có con, bị chồng đổ riệt tiếng oan mà không thể thanh minh. Chuyện thành Phật Vô lượng là ước mơ khát vọng ở hiền gặp lành trong tâm thức dân gian và theo Phật thoại tuyên truyền cho giáo lý Phật giáo mà thôi! Nói cách khác: Thị Kính suốt đời không có hạnh phúc. Cuối đời chỉ đạt hạnh phúc trong giấc mơ tôn giáo hão huyền!
       Còn con gái Phú ông tên là Mầu Thị, tư tình ngoại ý, đến có hoang thai (lời rao làng của vợ mõ Mới - mẹ Đốp)… bị đem ra ngả vạ giữa chốn đình trung. Mầu cũng chỉ bị làng phạt theo lệ làng. Xong chuyện, vẫn sống yên ổn trong nhà bố mẹ giàu có. Rồi chắc sẽ được gả bán cho một gã đàn ông nào đó và sống tiếp cuộc đời người vợ, người mẹ, người bà…  cho đến mãn chiều xế bóng nơi thôn ổ êm đềm.
       Xem chèo Quan Âm Thị Kính, người ta cười và thích Thị Mầu, thương và phục Thị Kính. Vì sao vậy? Bởi vì Thị Mầu là thực. Thị Kính là mơ. Thị Mầu là Đời. Thị Kính là Đạo. Thực - mơ cùng tồn tại trong đời sống tâm hồn, tâm linh, hàm chứa nỗi niềm khát vọng hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình của người nông dân nghèo Việt Nam xưa… Ở đây có cái duyên và cái phận. Đạo, đời cũng phải tùy duyên, tùy phận như Thiền sư Trúc Lâm Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã viết:
                                                   Cư trần, lạc đạo phải tùy duyên.
       Trở lại bài thơ Thị Mầu của Vương Trọng.
       Tôi cho rằng cái nút của bài thơ này thể hiện ở 2 câu cuối:
Nếu chú tiểu chẳng là Thị Kính,
Người đời sau sao hiểu được Thị Mầu?
       Chọn cấu trúc giả định, giả thiết – kết luận theo công thức ngôn ngữ (nếu A thì B) và phủ định – nghi vấn (chẳng A – sao B?) để nêu và bình luận 1 nghịch lý – sự thật trong thực tế và trong nghệ thuật. Vô lý trở thành có lý. Khó hiểu trở nên dễ hiểu. Đó là cái thìa khóa để người xem, người đọc mở ra, tìm hiểu đúng bản chất nhân vật Thị Mầu và hiện tượng Thị Mầu, vấn đề Thị Mầu trong cuộc sống đời thường.
       Bây giờ ta thử kiểm nghiệm bằng cách đặt một giả định ngược lại: Nếu chú Tiểu là 1 chàng Văn Kính (?!) (nam giới) thực sự thì người đương thời và đời sau tất sẽ chẳng hiểu nổi Thị Mầu!? Nghĩa là có thể một Tiểu đàn ông thứ thiệt nào đó sẽ rất có thể xiêu lòng và sa ngã trước sự tấn công dồn dập, bão táp của ả gái dở đi rình của chua Thị Mầu. Chàng nếu không bị biến thành con nhái (theo truyện dân gian Sự tích con nhái) thì cũng sẽ bị đuổi ra khỏi chùa, cấm cửa Phật môn, bắt hoàn tục, về đi cày, trong sự nhục nhã ê chề của cha mẹ, họ hàng, làng xóm. Thị Kính nhất định phải là gái giả trai thì mới có cơ hội và lý do chính đáng xảy ra hoạt cảnh bi hài kia.
       Trước hết, để Thị Kính hiểu và đồng cảm, xót xa, thương cho khát vọng, tình cảm của người bạn cùng giới đặt lầm chỗ cũng như thương cho chính thân phận mình, khát vọng hạnh phúc của bản thân mình buộc phải từ bỏ mãi mãi để nương mình nơi cõi Phật cốt minh oan cho cái án giết chồng thì lại có nguy cơ ụp vào cái oán hủ hóa dâm bôn – giới luật đầu tiên bị Phật đạo cấm ngặt. Mặt khác, nếu chú tiểu có là 1 gã đàn ông khỏe mạnh và đa tình khác, ắt Mầu không phải thất vọng trở về, tìm đến thằng ở nhà mình mà gian díu, thông dâm. Phải là Tiểu Kính Tâm đẹp trai ngời ngời mà lòng dạ thẳng băng, trơ trơ như gỗ đá, mới có dịp để Mầu hăm hở trổ hết tài năng quyến rũ: bằng ánh mắt đong đưa, lúng liếng sắc như dao, lời nói ngọt ngào, sóng sánh như mật, nụ cười môi thắm, răng trắng ngọc ngà mời mọc, 5 ngón tay búp măng nõn nà xòe, phẩy quạt, áp sát như muốn quạt cả làn hương gái tân hừng hực, đánh thức con đực khỏe mạnh; trong điệu dân vũ nhịp nàng, dồn dập, váy áo bay tung, dải thắt lưng xanh phấp phới, quấn quyện ngay trên đầu chú tiểu trẻ đang ngồi gõ mõ, niệm kinh, chịu trận như hóa đá… Tóm lại, nàng Mầu trổ hết công năng, tài sức của 1 con cái đang thì, đang mùa động dục để mồi chài con đực cùng vào cuộc giao hoan. Kính Tâm càng ngồi đều đều, liên hồi gõ mõ, niệm Nam mô Adiđà Phật, vẻ mặt càng cố tỏ ra bất động, lạnh lùng, vô cảm bao nhiêu thì cơn sóng tình, sóng dục của Thị Mầu càng ào ạt, bùng lên dữ dội bấy nhiêu. Mầu càng biến hoá chiêu thức tấn công, quyết lòng chinh phục thầy tiểu đẹp trai, xuân sắc… Và nghệ thuật ca vũ chèo cũng thăng hoa ở đó.
       Tôi cho rằng đây là 1 lớp - cảnh đẹp nhất, trữ tình nhất, bay bổng nhất, giàu tính kịch nhất của vở chèo Quan Âm Thị Kính. Rõ ràng, trong hoàn cảnh cụ thể này, nhân vật Thị Mầu, đáng trách thì ít, đáng thương thì nhiều, thậm chí rất đáng đồng cảm, ca ngợi. Ca ngợi sắc đẹp mặn mòi, sắc sảo đã đành, ca ngợi cái tinh thần và bản lĩnh dám sống, dám liều mình lao tới, quyết giành lấy tình yêu, hạnh phúc, khát vọng được hưởng hạnh phúc lứa đôi mãnh liệt và chính đáng của người con gái thanh tân khỏe mạnh, yêu đời. Có điều trớ trêu là nàng lại vô tình nhắm vào 1 đối tượng trái khoáy không thể ngờ: một chú tiểu trên chùa đang dốc lòng tu hành, cố dứt duyên trần (ấy là chưa kể đó lại là 1 người cùng giới với nàng!).
       Mấu chốt căn nguyên bi hài kịch nơi cô Thị Mầu là ở đó. Chỗ sâu sắc, mới lạ của tứ thơ trong bài thơ Thị Mầu của Vương Trọng, theo tôi, cũng xuất phát từ đó.
       Từ câu đầu, trở xuống 4 khổ rưỡi - 18 câu trên, trong cảm nhận của tôi, chỉ là sự thơ hóa, vần, nhịp hóa một cách khéo léo, hiện đại những lời nói, cử chỉ, hành động và tâm trạng của Thị Mầu trong quá trình lúc thì nhập thân vào nhân vật trữ tình, lúc lại lùi ra luận bình, cảm thán. Có những câu thơ, khổ thơ duyên dáng, gợi cảm ý nhị, giọng tình xao xuyến, diết da, lời tán giai ngọt như mía lùi, sát sàn sạt, khi bày tỏ, lúc gọi mời, lúc lại như thở than, hờn dỗi. Chẳng hạn:
Thầy Tiểu ơi! Niết Bàn xa vời vợi,
Hạnh phúc thật gần, hạnh phúc ở em đây!

…Má nóng bừng, đôi môi cháy khát,
- Vứt dùi, mõ đi, nắm cổ tay em!

- Đứng lên nào! Gác “Mô Phật” một bên,
Lời kinh kệ sánh với em sao được?
Em đang “ngã” và em đang “chết”,
Cứ tránh hoài, em biết vịn vào đâu?!
       3 động từ, ngã, chết, vịn đều lấp lánh 2 lớp nghĩa cụ thể và đục mờ. Động từ vịn sử dụng thật diệu nghệ vừa thể hiện động tác của bàn tay Thị Mầu rất muốn đặt nhẹ (vịn) lên vai Tiểu Kính vừa bộc lộ tâm trạng tha thiết muốn được yêu, được chở che, nương tựa vào người con trai. Dù mạnh bạo, cứng cỏi đến đâu thì Mầu vẫn là cô con gái mới qua tuổi trăng tròn. Nhưng nhìn chung, chẳng qua vẫn là sự cụ thể hóa, hiện đại hóa một cảnh diễn trên sân khấu, sự dựng lại cảnh vật và tâm trạng nhân vật một cách khéo léo, có nghề, bằng ngôn từ thi ca mà thôi.
       Tuy nhiên, 3 câu: Hạnh phúc thật gần, hạnh phúc ở em đây! … Em đang ngã và em đang chết/Cứ tránh hoài, em biết vịn vào đâu! Là những câu thơ khá tài hoa, tinh tế trong biểu hiện tâm lý nhân vật chứ không phải thật sắc sảo hay mới lạ về hình ảnh, ngôn từ biểu đạt.

       Đọc Thị Mầu của Vương Trọng, thấy cảm thông, yêu thương hơn cô gái Việt xinh ròn, lẳng tít, táo bạo Thị Mầu, càng chạnh lòng xót xa, khâm phục cô gái hiền xinh, đầy nghị lực và lòng vị tha Thị Kính trong vai giả trai Tiểu Kính Tâm, và dĩ nhiên, càng tự hào hơn về vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính  trong niềm quý trọng, thiêng liêng những khát vọng tình yêu, hạnh phúc của con người./.
                                           Nhà thơ Vương Trọng

* Đọc 2 bài thơ vịnh Tiên DungThị Mầu của Vương Trọng ở phần Phụ lục, tr. ………….)
Chiều mưa xuân 7 – 4 – 2015. ĐV


3 nhận xét:

  1. Đọc bài thơ " Thị Mầu " của bác Vương Trọng thấy hay và đọc lời bình của bác Đường Văn cũng rất hay . Lời bình mộc mạc , chân thật , dễ hiểu
    Đồng ý với Bác điểm nhấn của cả bài thơ là hai câu kết . Nếu không có Thị Kính " giả trai " và nếu không có Thị Mầu lẳng lơ thì vở chèo cổ " Quan âm Thị Kính " không sống được đến bây giờ . Hai nhân vật này tương hỗ với nhau , cả hai đều đẹp và đều đáng thương như nhau . Thị Mầu tuy chỉ là vai phụ nhưng lại lấn lướt vai chính , đó là cái hay mà tiền nhân để lại cho chúng ta
    Cảm ơn bác Vũ Nho và bác Đường Văn

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Chào Alaykum Salam!
      Cám ơn bạn đã ghé trang và chia sẻ!
      Người ta sẽ còn tốn nhiều giấy mực với Thị Mầu!

      Xóa