Thứ Năm, 8 tháng 3, 2018

Trao đổi lại với tác giả bài Tản mạn văn xuôi Thái Nguyên thời kì 'hậu Việt Bắc'





HỒ THỦY GIANG

 
                   TRAO ĐỔI LẠI VỚI ÔNG NGUYỄN KIẾN THỌ VỀ BÀI

                   Tản mạn về văn xuôi Thái Nguyên thời kì “hậu Việt Bắc”  



Sau khi bài Tản mạn về văn xuôi Thái Nguyên thời kì “hậu Việt Bắc” của tác giả Nguyễn Kiến Thọ đăng trên số báo xuân Mậu Tuất 2018 báo Văn nghệ Thái Nguyên, có một số bạn văn tỏ ra không hài lòng. Sự việc đó âu cũng là lẽ thường trong sinh hoạt văn chương. Nhưng rồi sau đó tôi nhận được không ít điện thoại của các bạn văn than phiền, có người bày tỏ sự bức xúc. Bởi thế, tôi mới đọc bài của ông Thọ và viết bài trao đổi lại.

Thực ra, bài viết của ông Thọ chỉ là loại bài ‘đến hẹn lại lên’, nghĩa là thường trong dịp lễ tết, viết theo đặt hàng của tòa soạn. Loại bài này nếu được viết một cách công tâm, chính xác thì nó giống như một cánh én báo tin vui mỗi độ xuân về. Anh em viết lách được một dịp điểm quân, được động viên, được góp ý về những điểm mạnh, yếu để có thể tiếp tục cầm bút trong một niềm vui sáng tạo. Nhưng bài viết của ông Thọ lại không có được những hiệu ứng tốt đẹp như vậy.

Hãy bỏ qua những gì thuộc về cá nhân, ở bài viết này tôi muốn hướng vào chuyện học thuật.

Tản mạn về văn xuôi Thái Nguyên thời kì “hậu Việt Bắc ”, tuy mang tính truyền thông, nhưng nó thuộc loại phê bình một giai đoạn văn học. Loại bài này, nếu không phải là một nhà phê bình được chứng kiến giai đoạn văn học mà mình định viết thì cũng phải là người có kiến thức sâu sắc, người nghiên cứu có trách nhiệm. Bất cứ một giai đoạn văn học nào, của cả nước cũng như của các địa phương cũng đều mang tính lịch sử của nó. Những nhận định, đánh giá của một người chưa đủ sức nghĩ, sức hiểu cả về chiều rộng lẫn chiều sâu thường gây hại cho cộng đồng, nhất là với những đối tượng đang cần học tập và nghiên cứu như các em học sinh, các thầy cô giáo trong nhà trường phổ thông và đại học...
                                                             Nhà văn Hồ Thủy Giang


Ở bài viết này tôi không nhằm đi sâu vào việc mổ xẻ nội dung và nghệ thuật bài của ông Thọ mà chỉ xin bàn lại về một số nhận định trong giai đoạn văn học mà ông Thọ bỏ chung vào một “rọ”: thời kì “hậu việt Bắc”.

Trước khi vào vấn đề, tôi xin nói chút ít về quãng thời gian mà ông Thọ gọi là “hậu Việt Bắc”. Khái niệm về giai đoạn văn học này, theo ông Thọ, được mở rất rộng, nghĩa là từ khi giải tán Khu Tự trị Việt Bắc (1975) cho đến tận ngày hôm nay. Tất nhiên, nếu hiểu theo ngữ nghĩa của từ “hậu” thì tất cả những gì sau nó đều có thể gọi là “hậu”. Nhưng quan niệm về giai đoạn văn học của ông Thọ tôi cảm thấy cần trao đổi thêm. Các nhà lí luận thường nói đến Thời kì Thơ Mới (1932- 1945), thời kì văn học cách mạng, kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Thời kì văn học Đổi Mới (từ 1986)…Chứ chưa thấy ai nói đến cái “hậu”- “hậu Việt Bắc” trong một quãng thời gian dài đến như vậy. Hỏi rằng có ai nói thế hệ làm thơ thế kỉ XXI bây giờ ở Thái Nguyên (và cả Việt Nam nữa) là thời kì “hậu Thơ Mới” hoặc “hậu kháng chiến chống Pháp” …không? Thứ nữa, nếu bàn đến cái “hậu” của một thời kì văn học thiết nghĩ cũng nên ít nhiều nêu ra những tiếp biến về thi pháp, ngôn ngữ, văn hóa… nghĩa là cái “chất” Việt Bắc có ảnh hưởng gì đối với thời kì văn học kế tiếp (có thể ảnh hưởng từ di truyền văn hóa bằng ý thức và vô thức) thì mới đáng để nói về cái “hậu” của một thời đoạn văn chương chứ. Nhưng mà thôi, đấy là quan niệm riêng của ông Thọ, không cần nhọc công bàn cãi. Cái sự “hổng” kiến thức về thời kì văn học “hậu Việt Bắc” của ông Thọ mà tôi muốn nhắc đến không phải là vấn đề này.

          Trước hết, khi bàn về những tác giả của thời kì “hậu Việt Bắc”, ông Thọ đã có những lầm lẫn đáng tiếc. Sự khẳng định hai nhà thơ Hà Đức Toàn và  nhà thơ Ma Trường Nguyên là hai cây bút có tính đại diện cho văn xuôi Thái nguyên thời kì “hậu Việt Bắc” đã chứng tỏ ông Thọ không am tường giai đoạn văn học này. Ông Thọ có biết rằng, cho đến tận năm thành lập Hội VHNT tỉnh Thái Nguyên (1987), ngoài một giải thưởng thơ duy nhất ở báo Người Giáo viên nhân dân, Hà Đức Toàn chưa hề có một truyện ngắn nào được đăng trên báo địa phương chứ chưa muốn nói ở trung ương. Cuốn văn xuôi đầu tiên “Ngôi nhà của thượng úy về hưu” (tập kí) của Hà Đức Toàn được xuất bản vào năm 1990. Bước sang thế kỉ XXI ông mới lần lượt xuất bản tiểu thuyết “Đồi ba ông đầu rau”, “Tiếng hổ gầm”... Còn nhà thơ Ma Trường Nguyên cũng là một cây bút thơ từ thời Việt Bắc kéo sang thời “hậu Việt Bắc” chứ không phải văn xuôi. Tận năm 1991 Ma Trường Nguyên mới có cuốn tiểu thuyết đầu tiên  là “Mũi tên ám khói”.  Vậy mà sao ông Thọ dám phán một cách xanh rờn : “Trước hết,  phải kể đến các lão tướng có thể coi là đã hoàn thành xuất sắc vai trò, sứ mạng của họ đối với văn xuôi Thái Nguyên như Hà Đức Toàn, Ma Trường Nguyên…Họ đã đi qua một thời trai tráng, một thời thanh niên sôi nổi và dẫu họ có ngừng viết thì lịch sử văn học Thái Nguyên không thể không nhắc đến tên tuổi của họ như những cây bút mở đầu cho văn xuôi Thái Nguyên thời kì hậu Việt Bắc”. Trời ơi! Liệu ông Thọ có biết, vào những năm kể từ khi Khu Tự trị Việt Bắc giải thể đến năm 1980, rồi 1990, khi mà các tác giả như Nông Minh Châu, Xuân Cang, Vi Hồng, Vũ Duy Thông, Nguyễn Đức Thiện, Nguyễn Minh Sơn, Trịnh Thanh Sơn, Vũ Nho, Hồ Thủy Giang, Chu Hồng Hải, Đồng Tâm, Nguyễn Anh Bình, Ba Luận, Nguyễn Hải Lưu… cùng những tiểu thuyết và truyện ngắn của họ được xuất bản và đăng tải thường xuyên trên các báo lớn ở trung ương như Báo Văn nghệ, Tạp chí Tác phẩm mới (một ấn phẩm có uy tín của Hội nhà văn Việt Nam thời ấy), Văn nghệ Quân đội, Tiền phong, Nhân dân, Người giáo viên nhân dân với nhiều giải thưởng sáng giá thì Hà Đức Toàn và Ma Trường Nguyên (những người mà ông Thọ đánh giá là những tác giả mở đầu cho văn xuôi của thời kì hậu Việt Bắc của Thái Nguyên) chưa hề có một đầu sách văn xuôi trình làng (vì lúc ấy họ là những người làm thơ và có những đóng góp đáng kể). Vậy, không phải ai khác, mà chính loạt tác giả tôi vừa nêu tên ở trên mới là những người mở đầu và làm nên một thời kì sáng tạo hoàng kim của văn xuôi “hậu Việt Bắc” ở Thái Nguyên. Một sự lầm lẫn “khủng” mà một nhà phê bình có kiến thức và chân chính không thể mắc.

Tôi cũng hoàn toàn không nhất trí với nhận định của ông Thọ về hai nhà văn đã quá cố là Nông Minh Châu và Vi Hồng. Ông Thọ cho rằng: “Nông Minh Châu là người công bố truyện ngắn đầu tiên, tiểu thuyết đầu tiên của văn xuôi các dân tộc thiểu số. Nhưng từ đó cho đến hết cuộc đời, ông hoàn toàn không có một dấu ấn nào nữa. Vì sao vậy, đơn giản là vì ông không bắt kịp sự phát triển của văn chương đương thời”. Tôi rất ngờ sự hiểu biết của ông Thọ về nhà văn Nông Minh Châu, một nhà văn được nhắc tới không ít trong sách giáo khoa. Phải chăng, ông Thọ quan niệm “dấu ấn” ở đây phải là đoạt giải Nô- ben hay ít nhất là giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam? Nhận định về nhà văn Nông Minh Châu như vậy là bất công lắm đấy ông Thọ ạ. Nên hiểu, sau “Muối lên rừng” xuất bản năm 1964, Nông Minh Châu vẫn luôn giữ được phong độ sáng tác, mặc dù sức khoẻ của nhà văn không được tốt lắm. Ngoài việc làm thơ với sự xuất bản khá đều đặn, trong những năm từ 1964 đến khi từ trần (1979), Nông Minh Châu còn viết một loạt truyện ngắn, kí đăng tải trên các báo, chí ở Trung ương. Năm 1978 với bàn tay “bà đỡ” của biên tập viên Nông Phúc Tước ở nhà Xuất bản Văn hóa dân tộc, tập truyện ngắn “Tiếng chim gô” của Nông Minh Châu đã ra đời và có được dư luận tốt. Những người cầm bút trẻ chúng tôi ngày ấy đã đọc tác phẩm của Nông Minh Châu và coi đó như một tấm gương sáng tạo. Ông Thọ cũng nên hiểu thêm, vào thời kì đó, khoảng trên dưới mười năm mà được xuất bản một tập truyện ngắn hoặc một cuốn tiểu thuyết đã là một dấu ấn đối với các tác giả hoạt động ở địa phương và phần nào cả ở trung ương nữa.

Còn những nhận định của ông Thọ về nhà văn Vi Hồng thì quả là tôi phải “rùng mình” về sự thiếu cẩn trọng của một nhà phê bình văn học (nếu đáng gọi là như vậy). Hãy xem ông Thọ hạ bút về Vi Hồng khi ông đưa vào văn cảnh tiếp nối với những nhận xét về nhà văn Nông Minh Châu: “Vi Hồng cũng vậy, nếu ông còn sống và còn sáng tác ở thời điểm hiện tại, tôi cam đoan rằng ông sẽ chỉ là cái bóng của chính mình, cái bóng bị chính thời gian làm mờ nhòe và không thoát ra được. Vi Hồng sẽ không thể vượt qua được cây cầu truyền thống để đến với văn xuôi hiện đại đang sải những bước dài mạnh mẽ từ sau Đổi mới”. Chao ôi! Không rõ dựa vào đâu mà ông Thọ dám phán xét về tiền nhân như vậy. Liệu ông Thọ có biết rằng ở Việt Nam đã có không ít các nhà văn tuy không còn trẻ nhưng đã từng vươn mình, thậm chí lột xác để thích ứng với văn chương hiện đại. Tất nhiên Vi Hồng không còn nữa, không thể có những tác phẩm tiếp theo. Nhưng đó đâu phải là điều để ông Thọ liều mình nhận định một câu thiếu trách nhiệm và vô căn cứ như vậy. Hơn nữa, tôi xin nói thêm, tác phẩm “Đường về với mẹ chữ” của Vi Hồng được xuất bản năm 1997, cũng là năm Vi Hồng từ trần, đã đoạt giải nhất trong cuộc vận động viết về thiếu nhi do Nhà Xuất bản Kim Đồng tổ chức. Đây là một giải lớn, ban giám khảo là những nhà văn xuất sắc nhất nhì cả nước, chắc không trao giải nhầm. Về sau, chính tác phẩm này lại là một trong hai tác phẩm được xét để trao giải Nhà Nước vào năm 2012. Và về phía cá nhân, tôi được biết ngay từ những năm đầu của thập kỉ 80 thế kỉ trước, Vi Hồng đã nhiều dịp trao đổi với bạn văn Thái Nguyên về phương pháp hiện thực huyền ảo của Châu Mỹ La tinh, trong khi nhiều người viết trẻ chúng tôi còn rất mù mờ. Nói vậy để thấy Vi Hồng không phải không có ý thức đổi mới trong sáng tạo. Ông Thọ đứng trên phương diện nào mà có thể đoán mò về một nhà văn gạo cội vào bậc hàng đầu ở địa phương Thái Nguyên và các nhà văn dân tộc thiểu số của cả nước như vậy? Vô lý quá ông Thọ ơi! Liệu có ai buông lời phán xét  đón đầu những tác phẩm không bao giờ còn có thể xuất hiện được nữa như vậy không?

Trong bài viết, ông Thọ cũng đề cập nhiều đến các nhà văn lớp sau, đương thời của Thái Nguyên. Đó là các nhà văn ít nhiều đang được ông chứng kiến, theo dõi trên đường văn chương chứ không phải là các nhà văn lớp trước mà khi các tác phẩm của họ đã lan truyền khắp cả nước thì ông mới cất tiếng chào đời. Vậy mà ngay cả khi viết về các cây bút đương thời, ông Thọ vẫn tỏ ra loạng choạng như người đi trên dây. Số lượng liệt kê về tác giả của ông từ những năm cuối thế kỉ XX bước sang thế kỉ XXI cũng chưa thể hiện đầy đủ bản chất của đội ngũ. Thưa ông, thời kì này, người viết văn xuôi Thái Nguyên không chỉ có Phạm Đức, Bùi Như Lan, Ngọc Thị Kẹo… như ông đưa ra. Tất nhiên ông cũng có dùng dấu ba chấm. Nhưng trên bảng điểm danh của ông, nhiều cái tên đáng nói thì lại thiếu vắng. Ví như nhà văn đã khuất Trần Quang Toàn, một cây bút có thể nói là duy nhất viết về mảng nông thôn ở Thái Nguyên với năm tập truyện ngắn được bạn đọc Thái Nguyên đón đọc cùng những giải thưởng cao; hoặc Nguyễn Văn, Dương Thu Hằng, Hoàng luận, Lê Thế Thành, Phạm Quý, Phan Thức… là các tác giả từng đoạt những giải thưởng ở trung ương và đã xuất bản nhiều đầu sách riêng được phát hành trên phạm vi toàn quốc, được giải thưởng ở trung ương và địa phương, đã góp phần làm nên diện mạo cho văn xuôi Thái Nguyên trong những thập niên đầu của thế kỉ XXI. Tất nhiên ông có quyền nhắc đến người này và không nhắc đến người khác, nhưng cái quyền đó cũng nên có giới hạn chứ không thể sử dụng một cách thiếu khoa học. Tôi đồ rằng, ông Thọ đọc các tác giả văn xuôi Thái Nguyên một cách rất hạn chế nên trong bài viết ông không đưa ra được những minh họa làm sở cứ cho những nhận định của mình. Ví như trường hợp nhà văn Bùi Như Lan, một tác giả “xuất chiêu” từ đầu thế kỉ XXI nhưng đã như một niềm tự hào cho người sáng tác Thái Nguyên với nhiều tập truyện ngắn xuất sắc như “Tiếng chim kỉ giàng”, “Mùa mác mật”, “Hoa mía”…. cùng những giải thưởng lớn ở trung ương. Tôi có thể nói thêm rằng, với một nhà phê  bình công tâm và sâu sắc thì không thể không nhắc đến nhà văn Bùi Như Lan như một hiện tượng của văn xuôi Thái Nguyên trong thời kì “hậu Việt Bắc”, chính xác hơn là thời kì Đổi Mới. Phẩm chất của một nhà phê bình ở đâu mà chỉ thấy ông nói về Bùi Như Lan trơ trọi một cái tên cùng một dòng quá ư giản lược? Với Nguyễn Minh Sơn cũng vậy. Hiện giờ, với hoàn cảnh gia đình và sức khỏe, anh đã sáng tác ít hơn so với những năm trước, nhưng có thời là một trong những cây bút được bạn đọc Thái Nguyên mến mộ. Vậy mà ông nhận xét về Nguyễn Minh Sơn cứ như một trò đùa: “Nguyễn Minh Sơn là một người lính đã đi qua những năm tháng ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Anh là một thày giáo dạy văn có năng khiếu văn chương và trong một phạm vi nhất định của sáng tạo nghệ thuật”. Lạ thật! Một đời văn của người ta mà lại quăng ra vài câu hời hợt như vậy sao? Có khác nào như khen một tác phẩm văn học lại đi khen cái bìa đẹp.

Hai tác giả Phan Thái và Minh Hằng được ông Thọ phân tích khá tỉ mỉ ở phần cuối bài (khoảng nửa non toàn bài viết). Cái “tít” bài của ông là nói về các tác giả “hậu Việt Bắc”. Nhưng Phan Thái và Minh Hằng không hiểu có ai xếp vào các nhà văn hậu Việt Bắc không, mà sao lại có sự phân tích “nặng cân” đến vậy?

Với nhà văn Minh Hằng, tôi không có ý kiến gì khi ông Thọ đánh giá về truyện ngắn của chị. Công bằng mà nói, ông Thọ đã có những nhận định khá chính xác về truyện ngắn của nữ nhà văn này. Nhưng sau khi phân tích truyện ngắn của Minh Hằng, ông Thọ đã phán một câu làm tôi hơi choáng: “Tạng chị không hợp với đại tự sự. Truyện ngắn của chị sở dĩ rất ngắn, theo tôi là do tình thế tạo ra chứ không phải là một ý đồ nghệ thuật, viết dài hơn sẽ chỉ là sự dông dài”. Tôi biết Minh Hằng tuy viết thơ, kí, tản văn đã lâu nhưng lĩnh vực truyện ngắn có lẽ chỉ thực sự có hiệu quả trong vài năm gần đây. Vậy cũng có thể coi chị là một cây bút mới, đang đà viết của thể loại này. Tôi muốn hỏi, ông Thọ dựa vào đâu, tài tiên tri hay óc phân tích kì diệu của một nhà phê bình trác việt để phán xét về Minh Hằng như vậy? Tuy hoàn toàn không muốn nhưng tôi xin lấy một dẫn chứng nhỏ về chính bản thân mình để minh chứng cho trường hợp Minh Hằng (chỉ để làm dẫn chứng chứ không hề có ý phô trương): Suốt từ ngày đầu cầm bút (khoảng năm 1967) chủ yếu tôi chỉ chung thủy với thể truyện ngắn, nhưng chưa một bạn đọc, một nhà phê bình nào nỡ nói tôi chỉ có thể viết được truyện ngắn chứ không viết được tiểu thuyết. Bước vào thập kỉ thứ hai của thế kỉ này tôi mới thực sự viết những thể loại khác. Trong 5 cuốn tiểu thuyết tôi hoàn thành vào thời gian này đều được thẩm định, đánh giá công bằng, trong đó có 3 cuốn đoạt giải ở trung ương. Thiết nghĩ, một nhà phê bình có lương tâm và tỉnh táo, không bao giờ võ đoán một cách bất công về bất cứ một tác giả nào như vậy. Thêm nữa, tôi đồ rằng ông Thọ chưa tỏ tường cho lắm về khái niệm “đại tự sự”. Xét về văn cảnh khi đưa ra thuật ngữ này, thì hình như ông Thọ hiểu đại tự sự theo ý nghĩa thể loại (Đại tự sự = tiểu thuyết). Ý nghĩa của Đại tự sự không hẹp như vậy đâu. Còn nếu ông đã “thừa hiểu” thì quả là không nên đặt lên vai một tác giả mới, lại ở địa phương như Minh Hằng một sứ mệnh lớn đến như vậy.

Còn đây là ý kiến của ông Thọ về nhà văn Phan Thái: “Tôi cho rằng Phan Thái dẫu có viết nhiều vẫn không đi được bao xa và không thể vượt qua chính mình” thì quả lại là một nhận xét hết sức chủ quan và thiếu căn cứ nữa. Ông nghĩ sao về một cây bút là quyền của cá nhân ông, nhưng nêu ra với ý nghĩa là một nhận định thì phải thận trọng và đặc biệt là cần có cơ sở khoa học. Vậy mà, hai nhà văn đã khuất (Nông Minh Châu, Vi Hồng) và hai nhà văn đương thời, đang đà đi lên ở Thái Nguyên (Phan Thái, Minh Hằng) đều được ông “xuất chưởng” bằng “thi pháp đoán mò”. Nguy hại lắm lắm đấy ông Thọ ơi! Chắc ông cũng thuộc câu thơ của Tú Xương: “Văn chương nào phải là đơn thuốc/ Chớ có khuyên xằng chết bỏ bu”.

Có một sự thật là những người viết văn xuôi ở Thái Nguyên chúng tôi trong nhiều năm qua đã cố gắng hết mình, đã đóng góp được một phần, dù hết sức bé nhỏ, với nền văn chương cả nước. Nhiều anh chị em đã không quản ngại khó khăn để vươn lên. Nhưng đòi hỏi người sáng tác ở Thái Nguyên có nhiều những Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Bình Phương hoặc Cao Bằng có nhiều Cao Duy Sơn, Y Phương là điều không thể. Dù thế nào đi nữa thì hoạt động văn chương ở các tỉnh lẻ cũng ít nhiều khó thoát khỏi ý nghĩa phong trào. Nhưng nói theo nhà văn Vi Hồng là có nụ mừng nụ có hoa mừng hoa. Xin đừng ai bứt nụ bẻ hoa làm hại đến nền văn chương mà chúng tôi đang hết lòng gìn giữ và gắng công phát triển.

Thiết nghĩ cũng nên có vài lời về phía biên tập và đọc duyệt của tờ báo đặt bài. Đặt bài ai tất nhiên là quyền của tòa soạn, nhưng tôi chỉ lấy làm lạ là trong khi ở tỉnh ta không ít lắm những nhà lý luận phê bình chuyên nghiên cứu về giai đoạn văn học sau khi Khu Việt Bắc giải thể và giai đoạn văn học vào thời kì Đổi Mới ở Thái Nguyên nhưng không được tòa soạn “để mắt” tới mà lại đặt bài một người viết phê bình chưa nhiều, nhất là đối với mảng văn xuôi như ông Thọ? Hơn nữa, với một bài viết có tầm quan trọng (những giai đoạn văn học, những thế hệ văn chương của một địa phương), có sự động chạm tới không ít người như kiểu bài viết của ông Thọ mà tòa soạn không nghĩ tới việc sử dụng các chuyên gia trong thẩm định, biên tập thì quả là một sơ suất đáng tiếc, nếu cho đó là một sơ suất.

Vài lời cùng ông Nguyễn Kiến Thọ như vậy, nếu có điểm nào còn hạn chế của một người xưa nay chủ yếu chỉ sáng tác chứ không quen với các kiến thức hàn lâm như tôi, xin được các bạn văn lượng thứ./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét