Thứ Năm, 24 tháng 5, 2018

THÀNH NGỮ KHOA TRƯƠNG TRONG TIẾNG HÁN (tiếp)



 

THÀNH NGỮ KHOA TRƯƠNG TRONG TIẾNG HÁN


(Phần 2)


Nguyễn Ngọc Kiên


(Tiếp theo)

          2.2.2.4. Sử dụng so sánh tu từ biểu thị khoa trương

Thành ngữ so sánh là lớp thành ngữ vừa mang những đặc điểm của phép so sánh tu từ trong ngôn ngữ, vừa mang những đặc điểm của thành ngữ. Vì thế, lớp thành ngữ này thường mang theo những đặc điểm mang tính loại biệt về mặt cấu trúc hình thái. Được khuôn định trong một kết cấu âm tiết có hạn (chủ yếu là bốn âm tiết), mà vẫn xuất hiện đầy đủ các thành tố của phép so sánh, nên cấu trúc hình thái của lớp thành ngữ này phải được giản hoá tới mức tối đa, các thành tố được sắp xếp với nhau khá chặt chẽ. Thành ngữ tiếng Hán phần lớn có nguồn gốc từ những câu truyện lịch sử, những điển tích xưa, và sau khi hình thành thì cấu trúc của nó thường ổn định từ cổ chí kim. Hay nói cách khác, thành ngữ được dùng trong tiếng Hán hiện đại phần lớn được giữ nguyên trạng từ thành ngữ trong tiếng Hán cổ. Thành ngữ so sánh tiếng Hán cũng không ngoại lệ.     

Do những đặc điểm ngôn ngữ xã hội, tiếng Hán được chia thành hai giai đoạn lớn: tiếng Hán cổ đại và tiếng Hán hiện đại. Trong mỗi giai đoạn ấy, tiếng Hán lại có những đặc điểm khác biệt cả về ngữ âm, ngữ nghĩa và cấu trúc. Điều đó có thể được chứng minh qua cấu trúc câu so sánh của tiếng Hán cổ đại và tiếng Hán hiện đại

 (A) Thành ngữ so sánh dạng hiện

Thành ngữ so sánh dạng hiện cũng giống như phép so sánh dạng hiện, là dạng thành ngữ mà trong cấu trúc bề mặt của nó xuất hiện yếu tố từ ngữ so sánh (như), (nhược), (tự), (ư) .v.v. Thành ngữ so sánh dạng hiện có thể coi là một dạng nguyên mẫu điển hình của phép so sánh, nghĩa là trong cấu trúc có một yếu tố đựợc đánh dấu cho phép so sánh. Các tác giả 陈望道 (Trần Vọng Đạo), 落小处 (Lạc Tiểu Sở), 李齐中 (Lý Tề Trung).v.v. chỉ công nhận những từ ngữ so sánh (như), (nhược), 宛如 (vãn như), 仿佛 (phảng phất) .v.v. xuất hiện trong cấu trúc so sánh tu từ, mới là phép so sánh tu từ dạng hiện. Còn trong các cấu trúc so sánh xuất hiện yếu tố từ ngữ so sánh là (thị), (vi), (thành) v.v. thuộc về phép so sánh dạng ẩn. Chịu ảnh hưởng của những quan điểm trên, các tác giả 倪宝元 (Nghê Bảo Nguyên), 史试 (Sử Thí) cho rằng, (tự) hay (nhược), (như) v.v. mới là thuộc nhóm thành ngữ so sánh dạng hiện. Tuy nhiên,theo chúng tôi, cứ có một từ ngữ đánh dấu biểu thị ý nghĩa so sánh xuất hiện trong cấu trúc đều đựợc xếp vào nhóm thành ngữ so sánh dạng hiện. Như vậy, những thành ngữ so sánh mang theo các từ biểu thị hàm ý so sánh như (thành), (đồng), (loại).v.v. cũng thuộc phạm vi thành ngữ so sánh dạng hiện.               

                        (Dẫn theo PGS – TS Nguyễn Hoàng Anh)

 ( 1) Thành ngữ so sánh ngang bằng

          Biểu thức: X + R + Y

          Trong loại này, giữa thành tố X và Y là từ ngữ biểu thị so sánh (R) thường là các từ ngữ: (như), (nhược) hoặc (tự) …. Chẳng hạn:

          心急如焚  [tâm cấp như phẩn] (ruột gan như lửa đốt),杀人如麻  [sát nhân như ma] (giết người như ngoé), 福寿齐天 [phúc thọ tề thiên]  (phúc thọ ngang bằng trời)

          (2)Thành ngữ so sánh không ngang bằng


          Biểu thức: X+ R + Y

          Có thể thấy, thành ngữ so sánh không ngang bằng trong tiếng Hán thuộc loại thành ngữ so sánh dạng hiện. Trong loại này, từ ngữ biểu thị so sánh (R) thường là các từ ngữ (ư), (tỉ)... Chẳng hạn: 

          危于累卵 (trứng quẩy đầu gậy);轻于鸿毛 (nhẹ hơn lông hồng);笑比河清 (tiếng cười trong hơn nước sông)

          Cần lưu ý, “tỉ” xuất hiện trong 寿比南山thọ t Nam Sơn là động từ biểu thị ý nghĩa ngang bằng, vì vậy cả thành ngữ biểu thị so sánh ngang bằng. Khi “tỉ” xuất hiện trong笑比河清 do trong cấu trúc của thành ngữ có “” “thanh” nên “tỉ” là một giới từ trong cấu trúc so sánh không ngang bằng, và do vậy thành ngữ 笑比河清 “tiếu tỉ hà thanh” (tiếng cười trong hơn nước sông) biểu thị so sánh không ngang bằng.

          Đó là những trường hợp đặc biệt; ngoài ra, “ư” và “tỉ” đều biểu thị so sánh hơn. Khi muốn biểu thị ý nghĩa so sánh kém, thành ngữ tiếng Hán thường dùng hình thức phủ định不如 “bất như”, 莫如 “mạc như” hay不及 “bất cập” để biểu đạt. Ví dụ:  

          鸡不及凤 [kê bất cập phượng] (gà đâu bằng phượng) = như công với quạ.

(B) Thành ngữ so sánh dạng ẩn biểu thị khoa trương

          Thành ngữ so sánh dạng ẩn là những thành ngữ trong cấu trúc của chúng thiếu vắng từ ngữ so sánh (R). Hiện tượng này rất phổ biến trong kho thành ngữ tiếng Hán và đã tạo ra một khối lượng thành ngữ so sánh dạng ẩn chiếm tỉ lệ không nhỏ trong toàn bộ số lượng thành ngữ so sánh tiếng Hán. Trong thành ngữ so sánh dạng ẩn, giữa thành tố X và Y không có các từ ngữ biểu thị so sánh song chúng vẫn được liên kết với nhau rất chặt chẽ qua các phương thức ngữ pháp đặc trưng cho loại hình ngôn ngữ đơn lập như trật tự từ và hư từ. Những thành ngữ so sánh dạng ẩn thường hàm ý so sánh ví von. trong đó so sánh ngang bằng chiếm một tỉ lệ áp đảo. Theo khảo sát của chúng tôi, thành ngữ so sánh dạng ẩn này không biểu thị hơn kém. Do vậy, ở phần này chúng tôi chỉ khảo sát về mặt cấu trúc của thành ngữ mà không thuyết minh là so sánh ngang bằng hay không ngang bằng. Thành ngữ so sánh dạng ẩn biểu thị khoa trương chính là hình ảnh thu nhỏ của thành ngữ thuộc loại này. Căn cứ vào cấu trúc, chúng có thể chia thành các tiểu loại sau đây.

          (a) Cấu trúc đơn “ X – Y” 

          Trong cấu trúc thành ngữ so sánh nói chung và so sánh biểu thị khoa trương nói riêng thuộc loại này chỉ xuất hiện hai thành tố: X (chủ thể so sánh) và Y (chuẩn so sánh), chúng tôi gọi đó là cấu trúc đơn, theo trật tự X – Y.  Ý nghĩa so sánh của thành ngữ phải được căn cứ vào mối quan hệ liên tưởng giữa hai thành tố X và Y. Chẳng hạn:  

          刀山火海 [đao sơn hỏa hải] (như núi dao biển lửa/ nơi nguy hiểm)

          车水马 [xa thủy mã long] (ngựa xe như nước)

          杯水车薪 [bôi thủy xa tân] (như cốc nước chữa xe củi)

          Ở đây mặc dù các từ ngữ so sánh không xuất hiện nhưng căn cứ vào ngữ cảnh, ta có thể hiểu ngầm rằng giữa thành tố X và Y có sự tham gia của các từ so sánh có ý nghĩa “như”, “bằng” .

Xét về mặt cú pháp, X và Y có quan hệ chủ vị, trong đó X là chủ thể được trần thuật, còn Y là thành phần trần thuật.

(b) Cấu trúc kép “X1-Y1-X2-Y2”

          Trong thành ngữ so sánh thuộc loại này bao gồm cấu trúc so sánh dạng ẩn có kết cấu chủ vị, mỗi yếu tố là các từ đơn âm tiết. Chẳng hạn:

          车水马龙 [xa thủy mã long]  (xe nối tiếp nhau như nước chảy, ngựa nối đuôi nhau như một con rồng).

          米珠薪桂 [mễ châu tân quế]  (gạo đắt như ngọc, củi đắt như gỗ quế).

          名缰利锁 [danh cương lợi toả] (danh là dây cương, lợi là còng xích /  bị trói buộc bởi danh lợi, nô lệ của danh lợi).

          Trong kết cấu của thành ngữ so sánh kép dạng ẩn nói chung và khoa trương nói riêng, các thành tố X1, X2 và các thành tố Y1, Y2 thường là những từ đẳng nghĩa, từ cận nghĩa hoặc các từ có quan hệ chặt chẽ với nhau về mặt ngữ nghĩa.

          (c) Cấu trúc đơn  “Y – X”

          Trong nhóm thành ngữ so sánh thuộc loại này, về cấu trúc Y (chuẩn so sánh) có vị trí đứng trước X (chủ thể so sánh). Về ý nghĩa, Y là thành phần tu sức trực tiếp cho X, tạo nên mối quan hệ cú pháp định danh. Chẳng hạn:

          锦绣前程 [cẩm tú tiền trình] (tiền đồ được dệt bằng gấm lụa).

          蝇头微利 [dăng đầu vi lợi] (lợi lộc nhỏ bằng đầu ruồi/ lợi bằng móng tay).

          金玉良言 [kim ngọc lương ngôn] (lời nói như vàng ngọc).

          Tiếng Hán là một ngôn ngữ đơn lập, đơn tiết, vì vậy trong kết cấu của thành ngữ gồm bốn âm tiết, X và Y thường là kết cấu song âm tiết để thuận tai, hài hòa về âm điệu.

          (d) Cấu trúc định danh “Y ––  X”

          Trong thành ngữ so sánh thuộc loại này, thành tố Y (chuẩn so sánh) đứng trước, thành tố X (chủ thể so sánh) đứng phía sau, trợ từ kết cấu (chi) đóng vai trò trung gian liên kết X và Y. Kết cấu này mang tính định danh và được sử dụng nhiều trong văn ngôn. Trong cấu trúc, X luôn luôn là thành tố có một âm tiết, như vậy Y còn lại là hai âm tiết. Chẳng hạn:

          弹丸之地 [đạn hoàn chi địa] (mảnh đất bé bằng viên đạn).

          破竹之势 [phá trúc chi thế] (thế mạnh như chẻ tre).

          Trong cấu trúc, thành tố Y có thể là:

          -  đoản ngữ danh từ (NP), chẳng hạn 弹丸 [đạn hoàn]

-         đoản ngữ động từ (VP), chẳng hạn: 破竹 [phá trúc]

          Trong thành ngữ so sánh dạng ẩn thuộc loại này, thành tố X thường do danh từ đơn âm tiết đảm nhiệm, yếu tố Y có kết cấu song âm tiết, trợ từ “chi” kết nối giữa thành tố X và thành tố Y. Do vậy, ở một khía cạnh nào đó, cấu trúc này có thể được coi là một dạng đặc biệt của cấu trúc Y – X.

(e) Cấu trúc kép “Y1 – X1 – Y2 – X2”

          Trong thành ngữ so sánh biểu thị khoa trương thuộc loại này có hai cấu trúc so sánh quan hệ đẳng lập, mỗi cấu trúc lại là một cấu trúc con so sánh dạng ẩn. Có thể chia thành ba tiểu loại sau:                            

          + Kiểu 1: “N - Adj - N – N”

          Trong cấu trúc của các thành ngữ thuộc loại này, các thành tố X và Y đều là các danh từ đơn tiết; các danh từ đơn tiết này lại tạo thành từng cặp ngữ danh từ biểu thị ý nghĩa so sánh. Chẳng hạn:

          鹤发童颜  [hạc phát đồng nhan] (mặt hồng hào như hài đồng).

          钢筋铁骨 [cương cân thiết cốt]  (mình đồng da sắt).

          花容月貌 [hoa dung nguyệt mạo] (diện mạo tươi đẹp như hoa, như trăng).

          Trong cấu trúc của thành ngữ, “Y1 – X1” và “Y2 – X2” là hai kết cấu có quan hệ chính phụ. Xét về mặt ngữ nghĩa các thành tố có quan hệ như sau:

          - X1 và X2 nghĩa có quan hệ tương quan như: - (phát – nhan), - (gân - cốt), - (dung - mạo).

          - Y1 và Y2 có thể là quan hệ tương phản như: - (hạc - đồng) hoặc tương đồng như -   (cương - thiết), - (hoa - nguyệt).      

           + Kiểu 2: “N – V –N – V”

          Trong thành ngữ so sánh nói chung và so sánh biểu thị khoa trương thuộc loại này, thành tố X gồm hai động từ đơn tiết, thành tố Y gồm hai danh từ đơn tiết. Các cặp kết hợp “X1 – Y1” và “X2 – Y2” là các kết cấu chính phụ biểu đạt ý nghĩa so sánh. Chẳng hạn:

          冰消瓦解 [băng tiêu ngoã giải]  (tan như băng, vỡ như gạch)

          神出鬼没 [thần xuất quỉ mai]  (xuất quỉ nhập thần).  

          蚕食鲸吞 [tàm thực kình thốn] (ăn như tằm ăn, nuốt như cá kình).

          挥汗成雨 [huy hãn thành vũ] (mồ hôi vã ra như tắm)

          Về kết cấu, trong mỗi cặp kết hợp giống như một cặp chủ vị, nhưng về bản chất lại không phải như vậy, những danh từ không phải là chủ thể của hành động mà chỉ được sử dụng để thuyết minh cho phương thức của động tác do động từ đảm nhận. Hay nói rõ hơn, quan hệ của các cặp này là quan hệ chính phụ; cho nên “蚕食鲸吞” ta phải  hiểu là  “ăn như tằm ăn, nuốt như cá kình” chứ không phải là “tằm ăn, cá kình nuốt”.

          + Kiểu 3: “N – Adj –N – Ad”

          Trong thành ngữ so sánh biểu thị khoa trương thuộc loại này, thành tố X1 và X2 đều là hai tính từ đơn tiết đồng nghĩa; thành tố Y1 và Y2 là hai danh từ đơn tiết, hai danh từ này thường là những sự vật biểu thị đặc trưng tính chất điển hình của X1 và X2.  

          Một số đoản ngữ tiêu biểu thuộc loại này:

          海枯石烂 [hải khô thạch lạn] (biển cạn đá mòn)  

          冰清玉洁 [băng thanh ngọc khiết] (trong ngọc trắng ngà)

          山高水长 [sơn cao thuỷ trường] (cao như núi, dài như sông).

          天长地久 [thiên trường địa cửu] (trường tồn như trời, vĩnh cửu như đất).

          水深火热 [thủy thâm hỏa nhiệt] (nước sôi lửa bỏng/ cực khổ lầm than)

3. Kết luận

Thành ngữ là tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa của nó thường không thể giải thích được một cách đơn giản bằng nghĩa của các từ tạo nên nó. Nó được hình thành và phát triển nhờ quá trình tích lũy lâu dài trong cuộc sống của người Trung Quốc. Người Trung Quốc rất thích khoa trương. Điều đó có thể thấy trong kho tàng thành ngữ tiếng Việt và tiếng Hán. Không thể tìm hiểu văn hóa Trung Quốc mà không nghiên cứu thành ngữ tiếng Hán. Không thể nghiên cứu tiếng Việt và tiếng Hán mà bỏ qua kho tàng thành ngữ  – một vốn quý trong kho tàng  tiếng Hán.





TÀI LIỆU THAM KHẢO

            1. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2006), Cơ sở Ngôn ngữ học và tiếng Việt, NXB Gíao Dục

2. Chu Xuân Diên, Đinh Gia Khánh (1972), Văn học dân gian, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp.

3.Hữu Đạt (2001), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, NXB Đại học Quốc Gia HN.

4. Hoàng Văn Hành (2001), Thành ngữ học tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội.

5. Đinh Trọng Lạc (2005), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, NXB Giáo dục.

            6. Đinh Trọn g Lạc, Nguyễn Thái Hòa (2006), Phong cách học tiếng Việt, NXB Giáo dục.

7. Hoàng Kim Ngọc (2009), So sánh & ẩn dụ trong ca dao trữ tình, NXB Khoa học.

8. Vũ Ngọc Phan (2003), Tục ngữ ca dao dân ca, NXB Văn học.

9. Đào Thản (1990), Lối nói phóng đại trong tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ.

10. Cù  Đình Tú (2007), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB Giáo dục.

11.Viện Ngôn ngữ học (1997), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

12. Nguyễn Như Ý (2002), Từ điển giải thích thuật ngữ Ngôn ngữ học, NXB Giáo dục.

13. 现代汉语词典, 2002),商务印书馆

14. 陈望道 (1975)修辞学发凡,上海人民出版社。  

15. 黄伯荣廖序 (1983),现代汉语甘肃人民出版社。

16. 王希杰 (2007),汉语修辞学,商务印书馆。





NGUỒN TƯ LIỆU TRÍCH DẪN

1.     Nguyễn Bích  Hằng, Trần Thanh Liêm, (2005), Từ điển thành ngữ - tục ngữ Hán – Việt, NXB Văn hóa thông tin Hà Nội.

2.     Nguyễn Văn Khang, (2008), Từ điển thành ngữ - tục ngữ Việt -  Hán, NXB Văn hóa Sài Gòn.








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét