Thứ Ba, 2 tháng 1, 2018

TRỞ LẠI BÀI CA DAO VỀ XỨ LẠNG





TRỞ LẠI BÀI CA DAO VỀ XỨ LẠNG

                               Vũ Nho

Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa

Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh

Ai lên xứ Lạng cùng anh

Bõ công bác mẹ sinh thành ra em

Tây cầm bầu rượu nắm nem

Mảng vui quên hết lời em dặn dò

Nhà nghiên cứu văn học dân gian Hoàng Tiến Tựu nhận xét “Đây là một trong những bài ca dao đáng được xếp vào hạng nhất trong những bài ca dao hay của nước ta” (1). Vấn đề làm cho người ta băn khoăn  nhiều nhất chính là những dị bản của bài ca dao này. Nếu vào thi viện, chúng ta sẽ có một bản chính thức kèm theo đó là 8 dị bản(2). Bản chính ở đó có thêm 6 câu lục bát nữa. Bài ca dao  6 câu  trên đây trong sách sưu tầm của nhà văn Vũ Ngọc Phan có thêm 2 câu: “Gánh vàng đi đổ sông Ngô/ Đêm nằm tơ tưởng đi mò sông Thương”(3). Nhà nghiên cứu Hoàng Tiến Tựu đã rất có lí khi cho rằng “ Trong điều kiện hiện tại, giải pháp phù hợp và có hiệu quả nhất là dựa vào cấu trúc nội dung và hình thức, kết hợp với sự điều tra tìm hiểu về cách cảm thụ và sử dụng của nhân dân để phân chia bài ca dao thành những bộ phận hợp lí, trên cơ sở đó mà tuyển giảng từng phần, từng đoạn. Đó cũng chính là giải pháp mà những người làm sách “ Trích giảng văn học” cho  nhà trường phổ thông trung học đã áp dụng. Và lâu nay hầu hết những người tham gia bình giảng bài ca dao này (ở nhà trường cũng như trên sách báo) đều dựa vào đoạn trích trong cuốn “Trích giảng văn học” nói trên” (4).

          Tuy nhiên, ông Hoàng Tiến Tựu lại không chấp nhận cách phân đoạn vốn rất phổ biến đó. Nhà nghiên cứu cho rằng bài ca dao của ông Vũ Ngọc Phan sưu tầm gồm 2 mảng, mỗi mảng bốn câu. Vì thế ông chia đôi, và chỉ bình 4 câu đầu tiên.(5) Chúng tôi cho rằng việc phân chia như thế là không hợp lí. Bài ca dao trong sách của nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan có 8 câu, nhưng rõ ràng 2 câu “ Gánh vàng đi đổ sông Ngô/ Đêm nằm tơ tưởng đi mò sông Thương” làm thành một mảng riêng. Sông Ngô không liên quan trực tiếp về mặt địa lí với xứ Lạng. Và cũng không liên quan lắm đến chủ đề “tỏ tình” của chàng trai mời người bạn tình thăm xứ Lạng. 
Trong khi đó, “bầu rượu, nắm nem” gắn liền với xứ Lạng. Nghĩa là thăm xứ Lạng thì trước tiên là thăm các thẳng cảnh, chùa chiền nổi tiếng : Phố Kỳ Lừa, nàng Tô Thị, chùa Tam Thanh. Nhưng xứ Lạng còn nổi tiếng với nghệ thuật ẩm thực là uống rượu và ăn nem. Một nơi du lịch lí tưởng là vừa thỏa mãn về phong cảnh ( phố Kỳ Lừa, nàng Tô Thị), vừa thỏa mãn tâm linh ( chùa Tam Thanh), lại thỏa mãn cả nhu cầu ẩm thực. ( Bây giờ xứ Lạng còn nổi tiếng với phở chua, vịt quay, lợn quay, khau nhục, cá suối, rau rừng,…)

          Chúng tôi cho rằng việc tách các mảng của bài ca dao nhiều mảng chủ đề có kết cấu khá lỏng lẻo như các tác giả “ Trích giảng văn học”  đã làm về cơ bản là hợp lí.
                                                                            Tác giả Vũ Nho, Chủ trang


          Dưới đây chúng tôi nêu lên một số cảm nhận về bài ca dao này theo văn bản  sáu câu khá ổn định được mọi người thừa nhận.

          Xét về thi pháp ca dao, chủ thể phát ngôn của bài ca dao này là một chàng trai. Chàng đang mời gọi “ nàng” cùng  với mình làm một chuyến chơi thăm xứ Lạng. Xứ Lạng có gì hấp dẫn. Hai câu đầu tiên có đến 3 từ “có”. Phố Kỳ Lừa là nơi giao thương buôn bán nhộn nhịp. Nàng Tô Thị chờ chồng hóa đá là một thắng cảnh gắn liền với câu chuyện cổ tích, thể hiện lòng chung thủy của người phụ nữ. Và chùa Tam Thanh, ngôi chùa nổi tiếng trong động Tam Thanh thu hút nhiều con nhang đệ tử thập phương.

          Điều lí thú là chàng trai không mời trực tiếp “ Em lên xứ Lạng” mà lại mời bâng quơ “ Ai lên xứ Lạng”.  Theo  chúng tôi, vấn đề là ở chỗ câu sau  lại có từ “em” nữa. Vì vậy sẽ là “trùng lặp” khi mời:

          Em lên xứ Lạng cùng anh

          Bõ công bác mẹ sinh thành ra em

Mời “Ai” bâng quơ nhưng xưng “anh” rồi lại nói  tới  “Bõ công bác mẹ sinh thành ra em” là một cách nói tình tứ, “nửa kín nửa hở”. ( Chúng ta nhớ lại bài ca dao “ Tát nước đầu đình”, chàng trai cũng nhờ một người – cô ấy, trả công cho một người  khác – em, rất “vơ vào” – Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng/ Khâu rồi anh sẻ trả công/ Ít nữa lấy chồng anh sẽ giúp cho/Giúp em một thúng xôi vò…). Chàng trai mời bạn tình thăm xứ Lạng với các thắng cảnh nổi tiếng như thế. Anh ta khéo léo nâng giá trị của chuyến đi lên rất cao. Có đi lên xứ Lạng, mới “bõ công bác mẹ sinh thành”.  Nhà nghiên cứu văn học dân gian Hoàng Tiến Tựu cho rằng như vậy là chàng trai đã “quá quan trọng hóa và làm cho “to chuyện”! Ông  lập luận rằng ở ta có nhiều nơi có nhiều thắng cảnh. “Không đi các xứ khác ( xứ  Bắc, xứ Đông, xứ Thanh, xứ Nghệ, xứ Huế v.v…) thì sao?” Rồi  nhà nghiên cứu tự trả lời “ Chàng trai trong bài ca dao đã nói nhỏ với chúng ta rằng : Xin bạn hãy chú ý đến chữ “cùng”! Thì ra chủ định của chàng trai và chủ đề của lời hát được tập trung và ẩn kín ở trong từ này”(6). Quả là chính xác! Nhưng trong ca dao, trong lời mời, chàng trai hoàn toàn có quyền nói quá lên về xứ Lạng như thế để thuyết phục đối tượng. Một dị bản ghi câu này là “Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em”. Bõ công hay tiếc công  thì cũng đều nói chuyện không đi cùng anh lên xứ Lạng là một thiệt thòi rất lớn của một đời người.

          Đến  chỗ này thì cần lí giải vì sao hai câu:

          Tay cầm bầu rượu nắm nem

          Mảng vui quên hết lời em dặn dò

lại gắn liền một cách hữu cơ với 4 câu trên  như các tác giả “Trích giảng văn học” đã  phân chia.

          Trước khi phân tích 2 câu này, tưởng cũng nên nhắc ở đây, nhà giáo Nguyễn Đức Quyền khi bình bài ca dao  đã chú ý đến từ “nắm nem”. Đại ý ông cho rằng mọi người hiểu nắm nem là loại nem ăn. Nhưng có người địa phương đã mách ông rằng nem ở đây là “nem hương”. Chàng trai  nói chùa Tam Thanh, nên nói chuyện đi lễ mang rượu và hương chứ không phải là nói chuyện ăn uống. Nhà giáo Nguyễn Đức Quyền là người có nhiều tìm tòi. Tuy nhiên, ở đây ông đã không chính xác. Nếu “nem” là lượng từ tương tự với thẻ, bó, đi liền với “hương” ( nem hương, thẻ hương, bó hương,…), thì “nắm nem” sẽ không thể chỉ “ bó hương” hay “thẻ hương”. Hai  lượng từ này sẽ chẳng có nghĩa. Mặt khác, vào chùa người ta chỉ thắp nhang;  nếu đủ lễ năm thứ  thì đó là hương, đăng ( nến),  hoa, quả, nước;  không ai đem rượu đi lễ chùa.

          Bây giờ trở lại bài ca dao. Bốn câu trên vừa nói phong cảnh xứ Lạng rất đáng thăm, đến nỗi không đi “cùng anh” thì “tiếc công”, đi “cùng anh” thì “bõ công”. Song xứ Lạng còn rất hấp dẫn bởi ẩm thực và cái  thú vui “ bầu rượu, nắm nem”. Sau lời mời rất “khéo léo” kia, chàng trai lại “thắt buộc” lời mời bằng việc nói cái  thú vui của xứ Lạng:

          Tay cầm bầu rượu, nắm nem

          Mảng vui quên hết lời em dặn dò

Có thể hiểu rằng anh tha thiết mời em lên xứ Lạng vì xứ Lạng đẹp, xứ Lạng vui, xứ Lạng hấp dẫn. Em đi “cùng anh” thì vừa vui, vừa kiểm soát được anh, vừa tránh cho anh sa đà. “ Mảng vui” là “mải vui”, là “quá vui”.  Vui như thế nên quên hết lời dặn dò( rộng ra có thể  là quên hết lời hẹn hò). Bởi vậy mà nhất định em phải “cùng anh” lên xứ Lạng đó nha! Cái mạch tỏ tình, mời gọi  vẫn liền sang hai câu  năm và sáu. Bởi thế mà các tác giả “ Trích giảng văn học” đã rất có lí phân mảng bài ca dao nhiều dị bản, nhiều chủ đề.

          Bài ca dao này vừa nói chuyện tình yêu quê hương xứ Lạng giàu đẹp, vừa tỏ tình một cách riêng tư, kín đáo. Bởi vậy mà nó thuộc loại bài ca dao hay nhất của xứ ta.

                                                  Hà Nội, ngày 29/11/2017

------

1)    Hoàng Tiến Tựu – Bình giảng ca dao, nxb Giáo dục, 1992, trang 106.

2)    Nguồn: Nguyễn Xuân Kính, Đặng Nhật Phan, Kho tàng ca dao người Việt, nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2001.

3)     Hoàng Tiến Tựu, sách đã dẫn, trang 107.

4)    Hoàng Tiến Tựu, sách đã dẫn, trang 109.

5)    Hoàng Tiến Tựu, sách đã dẫn, trang 110.

6)     Hoàng Tiến Tựu, sách đã dẫn, trang 112.

5 nhận xét:

  1. Bài bình của bác như khai quật bài ca dao lên từ mộ cổ, rồi ngồi lau chùi và ngắm vuốt với những nhận xét chiêm nghiệm về những từ ngữ hay quá.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Cám ơn bạn tan_262 đã ghé trang và hào phóng lời khen! Chúc bạn nhiều niềm vui và may mắn!

      Xóa
  2. Hay mà chưa hay. Nếu chúng ta chỉ hiểu tác giả "Mảng vui QUÊN HẾT lời em dặn dò" thì bài ca giao chưa thực sự lí thú. đúng nghĩa thì từ "quên hết" phải là từ " chả nhớ" để câu lục bát thành: "Tay cầm bầu rượu nắm nem, Mảng vui chả nhớ lời em dặn dò". Cái ý vị, lí thú ở đây là trong câu chứa đủ (rượu, nem, chả, dò).

    Trả lờiXóa
  3. Nếu ai chơi tranh cổ và cuốn thư cổ ở đó có nậm đựng rượu và nem được gói bằng lá chuối nem là món nem nắm được làm bằng thịt lợn và thính gạo được nắm tròn lại và gói trong lá chuối

    Trả lờiXóa
  4. Tôi lên Lạng Sơn nhiều , nhưng đọc câu thơ : “Đồng đăng có phố Kỳ lừa “
    Là không đúng . Bởi : phố Kỳ Lừa , nàng Tô Thị , chùa Tam Thanh đều ở Trung tâm Lạng Sơn . Đồng Đăng là một thị trấn biên giới cách Trung tâm Lạng Sơn 15 km . Vậy nên nhiều người nghe , đọc truyền miệng chệch ra thành: Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa …là sai .
    Phải đọc:
    Lạng Sơn có phố Kỳ Lừa
    Có nàng Tô Thị , có chùa Tam Thanh
    Mới đúng .

    Trả lờiXóa