GIỚI THIỆU THƠ PHẠM HỒNG NHẬT
THƠ PHẠM HỒNG NHẬT - TÌNH YÊU CUỘC ĐỜI
Hoàng Kim Dung
Tôi mới quen biết nhà thơ Phạm Hồng Nhật khoảng vài năm nay. Đó là vào một sáng mùa hạ, nhà thơ Nguyễn Ngọc Phú gọi điện cho biết vừa ra Hà Nội sẽ đến gặp tôi để tặng cuốn sách mới. Hôm đó, nhà thơ đi cùng với một anh bạn cũng đã lớn tuổi, qua lời chào buổi đầu tôi nhận thấy anh có vẻ điềm đạm và phúc hậu, nhà thơ Nguyễn Ngọc Phú giới thiệu, tôi mới biết người đi cùng là nhà thơ Phạm Hồng Nhật. Sau này tôi cũng có dịp gặp lại nhà thơ Phạm Hồng Nhật ở một nhà xuất bản. Sự thiện cảm của tôi từ buổi đầu về anh vẫn đúng vậy, rồi tôi đọc sách anh gửi tặng, đọc thơ đăng trên báo, tạp chí của nhà thơ ...
Những năm gần đây, nhà thơ Phạm Hồng Nhật đã xuất bản các tập thơ: Dư âm ngày trở, Hương thơm mời gọi, Thung lũng tình yêu, Trước ngọn đèn, Hải Phòng đêm lạnh, Sau cơn mưa cuối cùng mùa hạ, và Đàn bò lạc vào thành phố.
Đọc tập tuyển thơ Đàn bò lạc vào thành phố (NXB Hội Nhà văn, 2016) tôi được biết, Nhà thơ Phạm Hồng Nhật đã làm thơ, in thơ trên các báo từ hơn nửa thế kỷ trước. Năm 1972, bài thơ Trực chiến trên đồi của Phạm Hồng Nhật đã được nhà thơ Hoàng Trung Thông nhận xét: "Viết về tổ trực chiến trong những câu thơ súc tích" (trang 219). Năm 1977 trong bài “Xây dựng hình tượng nghệ thuật người thợ trong thơ một giải đất công nghiệp”, nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh cũng đã nhắc tới những tác giả và những bài thơ, trong đó có Phạm Hồng Nhật với bài thơ Thợ gò ( trang 221). Làm thơ, in thơ từ nửa thế kỷ trước, anh còn là hội viên sáng lập Hội Văn học nghệ thuật Quảng Ninh. Nhưng những chặng đường công tác của nhà thơ Phạm Hồng Nhật có nhiều thay đổi, nhưng cũng vì nhiều lý do riêng. Những năm sau anh vẫn làm thơ nhưng anh chưa in sách, mãi sau này khi tuổi hưu nhà thơ Phạm Hồng Nhật mới xuất bản thơ.
Trong tuyển tập Đàn bò lạc vào thành phố có 101 bài thơ, nhà thơ Phạm Hồng Nhật đã khai thác nhiều đề tài, thể hiện nhiều nỗi niềm cung bậc tình cảm của nhà thơ về con người, về cuộc đời của thế thái nhân tình. Thơ Phạm Hồng Nhật không sa vào tả cảnh. Thiên nhiên tươi đẹp luôn là sự ban phước lành vừa là mach ngầm khơi dậy cảm hứng sáng tạo.Nhà thơ đã tạo được sự lạ, sự riêng trong thơ, khi viết về đề tài này. Bài Cây trong vườn, viết 2009:
Cố sống để sinh sôi
thành lá thành hoa thành quả
cây cũng thể như người
nghiêng bên này, ngó bên kia
tìm nắng, tìm mưa
vất vả
… Sáng ra hoa rụng
không dám giẫm lên dù là rất vội
sững sờ bối rối
thương cho bao số phận
hoa đỏ như mặt người đánh phấn...
Trong sáng tạo mỗi nhà thơ đều có cách xây dựng hình tượng thơ ca riêng với một cảm xúc riêng. Có thể nói trong tập Đàn bò lạc vào thành phố, có nhiều bài thơ, Phạm Hồng Nhật đã có một sức tưởng tượng bay bổng và tư duy khái quát. Tác giả đã tạo được tính ước lệ và số phận trong thơ. Thí dụ bài Sông Hồng, Nhê va- đêm trắng, Một khúc sông Lô, Cảm xúc mùa thu:
Vịn vào sông Hồng xôn xao nắng gió
Để thấm vào máu thịt lúc đi xa
…Vịn vào sông Hồng – vịn bờ vai quen thuộc
Như vịn vào huyền thoại cổ
Sông mơ.
(Sông Hồng)
Tình yêu thương con người luôn được thể hiện đằm thắm trong thơ Phạm Hồng Nhật, từ buổi đầu với thơ và những năm sau này, với bao nhiêu biến động của xã hội, của cuộc đời, nhà thơ vẫn có được ngọn lửa cảm xúc trong sáng tạo. Tác giả đã khắc họa được vẻ đẹp của người lao động khi viết về những người công nhân vùng mỏ. Trong tập có một số bài thơ được nhà thơ viết từ giữa những năm 60, 70 của thế kỷ trước, in dấu ấn một thời trai trẻ của nhà thơ Phạm Hồng Nhật, đã có những năm tháng gắn bó với vùng mỏ Hồng Gai. Tác giả đã viết với một tâm hồn trong sáng, chân thành phơi phới của tuổi trẻ, đồng thời đã thấu hiểu công việc, cuộc sống vô cùng vất vả của những người công nhân vùng mỏ. Họ thật dũng cảm, biết vượt qua khó khăn thiếu thốn, ngày đêm say mê lao động ở một vùng công nghiệp than. Có thể đơn cử như bài: Thời gian, Buổi sáng trên đảo, Thợ gò, Tiếng hát của người đi biển, Nhà máy trong rừng, Mối tình cô thợ hàn, Thị xã tiễn đưa…
Tại sao có bài thơ, tác giả đã viết từ khá lâu, cũng có bài viết để phục vụ nhiệm vụ chiến đấu, sản xuất thời kỳ đó, nhưng không rơi vào cũ kỹ sáo rỗng? Tôi nghĩ, vì nhà thơ Phạm Hồng Nhật đã thể hiện được biểu cảm chân thực trong những câu thơ tinh tế, giàu cảm xúc qua ngôn ngữ thơ:
Tháng tư về thị xã đón cơn mưa
Giọt mưa đầu mùa trọn vẹn quá
Cửa sổ nhà ai vô tình để ngỏ
Mưa rắc lên những ô kính ướt nhòe
(Thị xã tiễn đưa - viết 1979 -
Năm đánh giặc Biên giới phía Bắc).
Đọc bài Thời gian, tác giả viết từ năm 1969, vâng, nếu không thấu hiểu và yêu mến vùng than và có một cách thơ Phạm Hồng Nhật, sao có thể viết được những câu thơ sau:
Thời gian ở mỏ, thời gian
Không cho phép ai do dự
Ôi thời gian, thời gian ở mỏ
Là tốc độ, nhân cách người vùng than!
Cũng trong những năm tháng đó, nhà thơ có bài Thị xã - nơi tôi yêu với tình cảm nồng nàn và biết ơn miền đất mỏ Quảng Ninh: Thị xã cần cù nuôi tôi / và dắt tôi vào ngưỡng cửa cuộc đời… Anh tự nói về mình trong những câu thơ giản dị và không kém phần lấp lánh: Tôi vào đời từ tâm dây dọi / cái nhìn qua thước thợ / vuông vức, thẳng băng.
Đặc biệt trong mỗi bài thơ của tập tuyển, nhà thơ Phạm Hồng Nhật luôn ghi địa điểm, năm tháng sáng tác mỗi bài. Điều này cũng là ý thích riêng của tác giả, mặt khác cũng góp phần tạo thuận lợi cho người đọc, hiểu thêm phần nào về tác giả sau khi đã đọc xong thi phẩm. Hình như sự “xê dịch” của địa chỉ, của không gian như mở cánh cửa cho tâm hồn nhà thơ, với những cảm xúc chân thành của nỗi nhớ thương, vui buồn trước số phận con người. Có thể thấy nhà thơ đã đi nhiều nơi, đến nhiều vùng miền, tỉnh thành của đất nước. Những bài thơ khởi đầu được viết từ đất mỏ Hồng Gai, Cát Bà, Quảng Ninh rồi Hà Nội, Bắc Giang, Nha Trang, Phan Thiết, đến Sài Gòn, Cần Thơ, Tây Nguyên …
Nhà thơ Phạm Hồng Nhật đã có nhiều năm công tác tại Liên Xô cũ. Tình yêu nước Nga vẫn in đậm trong ký ức nhà thơ, với những con người về cuộc sống những năm ở xứ người. Biết bao điều đã in dấu trong cuộc đời nhà thơ về nước Nga, từ ngọn cỏ, lá cây, bông tuyết đầu mùa đến những thành phố nguy nga tráng lệ. Nhưng hơn cả là tâm trạng phức điệu của con người khi xa cố hương. Cũng từ nơi đây, đã cho anh những cảm xúc trào dâng từ mảnh đất hiện thực, để anh có một số bài thơ viết về nước Nga. Tuy nhà thơ viết không nhiều về đề tài này, nhưng đều thể hiện tình yêu nước Nga, trong nhiều hoàn cảnh phức tạp của đời sống. Có bài thể hiện tâm trạng tiếc nuối của nhà thơ, khi Liên xô cũ sụp đổ bài: Nước Nga ơi! trong dòng sự kiện nóng từ Matxcova năm1991: ...Tiếng tây pha lẫn hơi rượu mạnh / Nước Nga ơi! thay chế độ như đùa. Từ địa chỉ vùng Daparode anh nhớ về mái trường nơi cố hương bài thơ Viết về trường cũ, dù thời gian đã trôi qua kỷ niệm vẫn còn mãi trong trái tim nhà thơ: Bạn cũ của tôi ơi / Thầy giáo đâu? tiếng giảng bài vẫn vọng từ năm ấy / bốn mươi năm chở những chuyến đò đầy.
Một đặc điểm dễ nhận ra, xuyên suốt chặng đường thơ của nhà thơ Phạm Hồng Nhật, có nhiều bài thơ chuyển tải nỗi buồn của sự nhớ thương, trong hiện tại và ký ức xa xăm. Trong bài Nhê va- đêm trắng, nghe như có tiếng khóc trong rừng của nỗi lòng cô liêu: “Tôi đi nặng trĩu bơ vơ / bên rừng thông tím/ buồn như là buồn” hay “Đọc thêm trang cũ thấm buồn / lật sang trang mới mờ sương cuối chiều”. Trong bài Phận người xa xứ là sự cảm thông sâu sắc của tác giả, về cuộc sống của những người trong hoàn cảnh, cũng vì miếng cơm manh áo mà sang xứ người làm ăn. Họ cũng từng có những ước mơ để đổi thay phận nghèo. Nhưng không phải ai ra nước ngoài là dễ dàng hót được bạc tiền, mà trong công cuộc mưu sinh, họ cũng đã phải chịu nhiều đắng cay, tủi nhục. Trước thực tế đó, nhà thơ đã thấu hiểu, xót xa thực sự cho thân phận con người, mới có thể viết được:
Tiếng Tây ấp úng nửa vời
tiếng ta chẳng lọt tai người một câu
ra ngoài mới biết bể dâu
lạc đàn bay mới tìm đâu đất lành
...Xứ người vận hội mong manh
bao nhiêu ước vọng cũng thành khói sương
dẫu chưa đến bước cùng đường…
nhìn ai trên tuyết mà thương cả mình.
Đọc thơ của nhà thơ Phạm Hồng Nhật, đã nhận ra những suy ngẫm của tác giả về đời sống, từ sự ngổn ngang phức tạp buồn vui của đời sống hiện tại, hay ký ức của xa xưa với những đắng đót, chát mặn của phận người. Đặc biệt, nhà thơ không mô tả, mà từ những vấn đề của hiện tại, của ký ức đã được nhà thơ khái quát, cô đọng bằng những phát hiện lạ, có tính thẩm mỹ được biểu hiện trong thơ anh. (Bài: Nông thôn, Thị thành, Hải Phòng đêm lạnh, …) Nhà thơ đã có cách cảm, cách nghĩ riêng khi viết về Vạn Lý Trường Thành trong bài Thiên hạ đệ nhất hùng quan như sau:
... Ta leo lên đây
mênh mông nỗi buồn
rờn rợn đá
tay nhớp nhá
bám vào sương chiều bâng quơ.
Ta leo lên tận cùng của Vạn Lý Trường Thành
không phải để làm thơ
không tham quan
không khen ngợi.
Ta leo lên tận cùng của Vạn Lý Trường Thành
cung kính chắp tay vái lạy
thành quả của muôn dân…
Nỗi buồn nhân thế, về phận người trong cõi nhân sinh đã được nhà thơ Phạm Hồng Nhật gửi trong mỗi câu thơ, bài thơ. Anh thổ lộ với lòng mình đến mặn chát khi nghĩ về quê hương ở một vùng biển, thời mà một gáo nước ăn nhà nghèo tìm kiếm / bát cơm chan đặt xuống nâng lên. Tình yêu quê hương luôn đau đáu trong lòng những năm tháng tác giả xa quê, dù quê nghèo khó, dù cả khi biến đổi khí hậu thiên nhiên tàn phá làng không còn làng nữa / thì với tôi làng vẫn còn một nửa / nửa cuộc đời sống chết ở bên nhau (Quê nghèo). Nhà thơ cũng đề cập đến những con người rất đỗi bình thường trong xã hội, những người có số phận không may mắn mà trên đường đời tác giả đã gặp, đã thấu hiểu và cũng rât tôn trọng. Nhưng hơn hết từ thẳm sâu tâm hồn, nhà thơ đã chia sẻ trong tình thương nỗi xót xa đến con người trong nhiều hoàn cảnh của sự khó nhọc, mất mát chia ly. Từ người thợ gò, thợ hàn, người đàn bà vác đá ướp các tươi, người mẹ liệt sĩ, đến sự mất, chia ly trong chính gia đình nhà thơ, có người anh trai là liệt sĩ đã hy sinh trong chiến tranh, mà sau này nhà thơ Phạm Hồng Nhật đã đi tìm người anh liệt sĩ, tai nơi đã hy sinh: “phá Tam Giang chiều tái tê / giữa mùa nước nổi, trời thê thảm buồn", và rồi vẫn vô vọng trong nỗi đau buồn của chiến tranh : “Anh tôi - nắm đất không bình không xương.” (Tìm anh).
Đặc biệt trong đời sống của cơ chế thị trường, vẫn tồn tại những mặt trái của nó. Trường hợp người bạn của tác giả là một học sinh giỏi toán, giỏi văn khi còn học phổ thông. Theo tiếng gọi của Tổ quốc, anh lên đường nhập ngũ, từ mặt trận trở về hậu phương, người bạn đã là một thương binh, nhưng bất hạnh là không thể nào xin được việc làm. Cũng thật cay đắng khi cảnh: “Trở về đây cậy cục ra, vào/ đơn xin việc năm bảy lần trả lại / không bằng cấp, không đỡ đầu mối lái / nhiều chữ không, cay đắng nhất: Không tiền!” (Hải Phòng - đêm lạnh).
Có thể thấy, trong nhiều bài thơ, Phạm Hồng Nhật như đã vắt kiệt mình, với sự chân thành, thấu cảm sâu sắc để bày tỏ nỗi lòng nhà thơ trước phận người. Có một số bài thơ, người đọc nhận thấy một nỗi buồn thấm đẫm trong tâm hồn nhà thơ. Từ bất chợt “cuối chiều ngơ ngẩn một mình / ngang vai tím ngắt một nhành liễu buông/… cuối chiều như tỉnh như mơ /vừa buông tay sáng vừa quờ đêm đen (Cuối chiều), đến cảnh “nào cụng ly tôi với tôi / trăng tan đã lộ ra rồi bình minh / nâng ly tay chạm tay mình / lạnh lưng thì góp cho thành mùa đông (Uống rượu một mình), rồi cả sự hữu hạn của kiếp người cũng được nhà thơ đề cập trong nỗi cô đơn Bao nhiêu tờ lịch trong năm / biết bao tờ lịch nằm trong tro tàn (Thời gian). Có những bài thơ tác giả không có từ buồn, nhưng đọc lên là nỗi buồn thăm thẳm, là những tâm sự chia sẻ của người viết, trước dâu bể đời người. Đặc biệt những nỗi buồn này không bi lụy, nó chuyển tải một vẻ đẹp riêng của thơ, nó chạm tới trái tim người đọc. Đây cũng là một thành công của nhà thơ Phạm Hồng Nhật khi xây dựng những hình tượng thơ qua cảm xúc thơ.
Mỗi nhà thơ đều có cách riêng trên con đường sáng tạo. Nhưng bao giờ cũng phải tạo được chất thơ qua ngôn ngữ thơ của bản thể sáng tạo. Chất thơ này cũng còn phụ thuộc vào “trời cho” với riêng mỗi người. Trong tuyển thơ này, nhà thơ Phạm Hồng Nhật có hai mươi hai bài thơ theo thể lục bát. Anh cho biết đã chọn lọc của hơn trăm bài thơ viết theo thể thơ này. Sự mạnh dạn kỹ lưỡng của nhà thơ, đã đem đến cho người đọc những bài thơ lục bát hay, thơ lục bát của Phạm Hồng Nhật sâu lắng, trầm buồn mà êm đẹp. Những bài thơ này vẫn tiếp thu truyền thống, nhưng tác giả đã tạo được sự lạ mới qua cảm xúc và sự tưởng tượng phong phú của tâm hồn thơ. Vì vậy không làm cho người đọc có cảm giác nhàm chán, mà trái lại có nhiều bài đã tạo được sự hấp dẫn qua cảm thụ thi ca. Tất nhiên cũng không thể cứ dựa vào vần điêu mà thiếu cảm xúc thơ sâu lắng, rất dễ làm giảm chất lượng thơ lục bát.
Trong tập sách có một số bài thơ tình mà tác giả đã cân nhắc lựa chọn, trong số rất nhiều bài thơ về đề tài trên mà nhà thơ đã viết: Thành Nam tháng mười, Sông Thương, Vào thu, Gửi…, Sau cơn mưa cuối cùng mùa hạ, Em và tôi, Đôi điều với Vũng Tầu... Thơ tình Phạm Hồng Nhật không biểu hiện những tâm trạng dữ dội, đau đớn, không được lãng mạn, bay bổng điệu đà mà có phần lặng lẽ điềm đạm mộc mạc trong nỗi nhớ niềm thương yêu của xa cách của nỗi buồn. Đó cũng là sự trân trọng, giản dị với những ứng xử, nghĩ về nhau nhẹ nhàng mà cảm xúc mạnh mẽ, mang đến khát vọng đẹp, của tình yêu đôi lứa, tình yêu thương con người.
Giản dị và chân thành luôn là yếu tố hỗ trợ cho cảm xúc của thi ca. Con tim nhà thơ phải rung động thật lòng để cất lên những âm thanh sống động của nhân sinh. Ở đó bao hàm cả ước mơ khát vọng và những buồn thương. Không phải kể lể dài dòng khó hiểu, cũng không rơi vào sáo rỗng khoe khoang, nhiều bài thơ của Phạm Hồng Nhật giản dị mà sâu sắc, thể hiện những cảm xúc đa chiều những tâm sự chia sẻ chân thực qua nhiều hình thức thơ. Điều này đã góp phần làm rung động và tạo cảm xúc bình yên trong tâm hồn độc giả.
Vâng, cũng như nhiều nhà thơ thật sự khác, phải yêu thơ ca thật lòng, phải hiểu cái mặn chát của nghề viết, làm thơ bởi tại tâm can mình. Không vì danh lợi gì ở xứ mệnh nhọc nhằn này, mà chỉ đơn giản vì tình yêu thơ ca từ trái tim đa cảm của mình.
Không thể không viết và rồi cuộc đời cứ rong ruổi, bôn ba suốt nhiều chặng đường để cuối cùng Phạm Hồng Nhật vẫn trở về với thơ. Khi nghĩ về thơ trong Khái niệm hình thành, tác giả cho rằng: Thơ phủ che một cái gì rất thật / lại khuyếch chương cái rất thật của mình / đó là tiếng đàn đêm ngày thổn thức / từ bóng đen lặn lội tới bình minh… Thiết nghĩ nếu không yêu, không tri kỷ và am hiểu thơ ca thì khó mà viết được những câu thơ giàu hình ảnh ý nghĩa như vậy.
Trước ngọn đèn nhà thơ như nói hộ tâm trạng của người viết và cũng thật chân tình xót xa khi bộc lộ tâm can trên hành trình đến với thơ của đời mình: Nhiều lúc nghĩ suy gác bút an bài / lại tiếc nuối ra vào bao tư lự / viết là biết gánh vào nỗi khổ / đã buông ra, rồi lại nắm tay vào… Thơ chưa tới đầu thời đã bạc / cứ mỏi mòn trông ngóng một điều chi!... Nhưng niềm lạc quan yêu sự viết vẫn đi cùng nhà thơ: …tôi kéo luôn mặt trời lên che tối / và bài thơ như vậy cũng vừa xong.
Cuộc sống với biết bao thay đổi trong sự phát triển không ngừng của sự vận động. Trong tâm thức của nhà thơ không thể tồn tại sự cũ kỹ trì trệ, mà rất cần sự đổi mới trong cách cảm, cách nghĩ trước đời sống của con người của xã hội của thời đại. Nhà thơ luôn khao khát tìm được chất thơ trong đời sống và trong chính tâm hồn đằm thắm, tươi mới của mình.
Với nhà thơ Phạm Hồng Nhật thì sao, trên những chặng đường dâu bể của cuộc đời, khi viết lên những bài thơ, câu thơ của muôn mặt đời sống nhân sinh từ trong cảm xúc thi ca của tâm hồn; từ tình yêu chung thủy với thơ (dẫu trước tiên chỉ cho mình), thì nhà thơ cũng thật lòng nói rằng Lặng lẽ nghe tâm mình xê dịch / Trong mông lung huyền ảo đất trời…
Phải chăng, đó cũng là một trong những yếu tố thật cần thiết để làm mới thơ và cũng không dễ để phát hiện ra điều này. Viết đến đây tôi có phần hiểu vì sao nhà thơ Phạm Hồng Nhật đã làm thơ từ năm mươi năm trước, mà sau này mới viết thêm và in nhiều tập thơ trong thời gian ngắn. Rồi nhà thơ đã chọn lọc in tuyển thơ.
Hiện nay mặc dù tuổi đã cao, nhưng nhà thơ Phạm Hồng Nhật vẫn nhiệt tình, chăm chỉ, đi đến các cuộc hội họp, gặp mặt các bạn văn chương, rồi gửi thơ mới sáng tác đến các báo, tạp chí với tình yêu thơ ca trong sáng đã có từ buổi đầu của thời trẻ. Vâng, mỗi nhà thơ đều có cách đi riêng để đến với thơ, yêu thơ khát vọng thơ hay, trong hành trình sáng tạo của mình. Chúc mừng nhà thơ Phạm Hồng Nhật.
Tháng 3/2022 - Chỉnh sửa 7/ 2025
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét