THÁI BÁ TÂN
TỰ TRUYỆN - 8
Đại khái đời tôi có thể chi làm ba giai đoạn. Một: Tuổi thơ - Dẫu nghèo khổ, cái nghèo khổ chung của thời đại và toàn xã hội, nhưng nói chung êm đềm, không có chấn thương nào. Lại may mắn trời xui đọc rất nhiều sách, là nền tảng vững chắc để phát triển sau này. Hai: Du học ở Liên Xô. Đây là giai đoạn đẹp nhất của đời tôi. Tiếp xúc với văn minh châu Âu, tôi học được nhiều điều quý giá ngoài kiến thức chuyên môn. Ba: Về nước - U ám và thất vọng. Giai đoạn nghi ngờ, trăn trở, sáng tạo và phản kháng.
Theo thông lệ hàng năm Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp tuyên dương hai đại diện xuất săc đi học ở nước ngoài về. Hình như năm 1975, năm tôi về nước, tôi là một trong hai người ấy, đại diện cho khối khoa học xã hội. Người kia, khối khoa học tự nhiên, là ông Ngô Thành Đồng, cùng quê Nghệ An. Tôi nói hình như là vì không nhớ chính xác, mà cũng chẳng có giấy tờ gì chứng nhận. Cứ rào trước thế, ngộ nhỡ không đúng lại mang tiếng nói dối, có tội.
Ngô Thành Đồng là một nhân vật hơi kỳ cục nhưng rất giỏi. Giỏi đến mức chẳng ai hiểu cậu ấy là ai và đang làm gì. Đến mức Bộ đặc cách cấp cho một căn hộ ở khu tập thể Kim Liên, phân về một cơ quan nào dó rồi cho tự do, muốn làm gi thì làm. Tôi quen cậu ấy từ hồi còn ở Moskva, về nước gặp nhau khá thường xuyên. Nhưng rồi tội nghiệp, cuối cùng cậu ấy đã chết vì ngộ chữ như các cụ nói. Cậu mắc chứng hoang tưởng. Lần nào gặp tôi cũng ghé tai thầm thì nói: “Goocbachôp đang cho người sang đây giết tao mày ạ”. Những lúc như thế, tôi thường mua phở và bia chiêu đãi. Có hôm còn chở về nhà. Cũng không ít hôm, cậu ấy nói thẳng với tôi, mắt long lên, mặt đỏ bừng, thậm chí sùi cả bọt mép: “Mày đi mua gì cho tao ăn đi. Hai ngày nay chưa có gì cho vào bụng”. Ăn xong, bình tĩnh trở lại, cậu ấy nói một thôi một hồi không nghỉ về các công trình nghiên cứu của mình trong lĩnh vực sinh học và toán học. Tất nhiên tôi không hiểu gì nhưng vẫn chịu đựng lắng nghe. Cậu ấy đang bệnh, và cuối cùng chết một cách thảm thương trong căn hộ được nhà nước đặc cách cấp cho với tư cách một nhân tài. Nghe nói ở Viện hàn lâm ta không ai hiểu các công trình của cậu và phải gửi chúng sang Liên Xô nhờ thẩm định. Tôi có viết một truyện mi-ni về cậu ấy, truyện “Người đoạt giải Nobel toán học”.
Cũng nghe nói lúc đầu tôi được phân công về Bộ ngoại giao hay Ban đối ngoại trung ương. Tôi không biết chính xác nhưng nếu thế thì chắc chắn người ta sẽ không nhận. Mà tôi cũng không quan tâm, vì chờ được gọi trở lại Liên Xô làm nghiên cứu sinh. Tôi chờ khá lâu mà không thấy động tĩnh gì, bèn đến gặp ông Võ Thúc Đồng, lúc ấy đã thôi làm đại sứ ở Liên Xô và được phân công làm Trưởng ban Nông nghiệp của chính phủ. Ông sống trong một biệt thự lớn ở Phan Đình Phùng, phố dành cho quan to. Ông chăm chú lắng nghe tôi. Mấy hôm sau quay lại, ông cho biết ông đã nói chuyện bộ trưởng bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp Tạ Quang Bửu. Ông Bửu nói cá nhân ông và bộ không có gì phản đối, nhưng bộ công an (hình như lúc ấy gọi là Bộ nội vụ) thì cương quyết không cho. Và ông, một người nhân hậu và công chính, đã tìm gặp bộ trưởng Trần Quốc Hoàn, cam đoan rằng “cậu ấy (tức tôi) hơi điên điên một tí nhưng là người tốt và có tài”. Ông Hoàn nói ông cũng không phản đối, có điều “cấp dưới nhất định không chịu”.
Dẫu không hy vọng nhiều nhưng tôi vẫn chờ. Khá lâu. Mỗi ngày sống bằng hai bánh mỳ và đều đặn đi bộ đến Thư viện quốc gia, ở phố Tràng Thi, đọc sách. Tối ngủ trên tầng năm một ngôi nhà khu E đang chờ hoàn thiện mà bà chị họ tôi đang làm đốc công cho mượn, ở Khu tập thể Kim Liên.
Cuối cùng, theo gợi ý của một người cùng làng, ông Đặng Văn Việt, trung tá, “con hùm xám đường số sáu”, tôi nhận làm phiên dịch ở Tổng cục Thủy sản (nay là Bộ thủy sản), mà ông là Tổng cục trưởng. Tôi làm ở đấy nửa năm, chẳng có gì đáng nói, ngoài một chi tiết buồn cười. Số là một lần có khách Na Uy đến thảo luận về một dự án thức ăn gia súc nào đấy ở Thái Bình. Cần gấp phiên dịch tiếng Anh, gấp quá, biết tìm đâu ra bây giờ. Tôi bảo để tôi dịch và thế là mọi chuyện ổn. Ông Việt cười: “Tớ tưởng cậu đi Nga về thì chỉ biết tiếng Nga”. Tôi kể chi tiết này để nói thời ấy tiếng Anh còn lạ lẫm lắm, chẳng ai biết, chẳng ai dùng và cũng chẳng ai coi trọng. Chính tôi cũng giấu, sợ nói ra người ta cười.
Rồi tôi xin chuyển công tác, phần vì ngay từ đầu đã không xác định đây là chỗ dừng chân lâu dài. Phần vì ghét lão trưởng phòng đối ngoại, ngu dốt, hách dịch và gian. Khách tặng cơ quan gì là lgo nghiễm nhiên đưa về nhà làm của riêng. Đây là cú nhạc nhiên đầu tiên về cung cách làm ăn của cơ quan nhà nước. Dẫu tiếc nhưng ông Đặng Văn Việt vẫn để tôi đi. Tôi và ông vẫn giữ lên lạc, thăm hỏi nhau cho đến khi ông qua đời vào năm 2021. Tiếc là tôi không đến viếng cụ được, vì lúc ấy đã vào Nam với con cháu. Một con người tuyệt vời.
Tôi xin về dạy ở trường Đại học Sư Phạm Ngoại ngữ Hà Nội, nay là một phần của Đại học Tổng hợp. Khoa Anh, môn văn học Anh Mỹ, dạy trực tiếp bằng tiếng Anh. Về trường được mấy ngày thì thấy trong sân trường một cô nước ngoài còn trẻ và khá xinh đẹp. Hỏi thì đó là một chuyên gia Liên Xô được phân về trường, dạy cùng khoa. Hình như còn có một ông nữa. Hỏi thêm thì hóa ra cô ấy học cùng trường Morice Thorez, Moskva, với tôi, khoa sư phạm, tốt nghiệp cùng năm hay trước đó một tí, tôi không nhớ. Thời ấy, chuyên gia là ghê lắm, ở trong một nhà riêng tại khu khách sạn Kim Liên. Lương thì chắc cao và chế độ đặc biệt. Còn tôi và mọi người khác thì theo quy định chung của nhà nước, bảy mươi lăm hay tám mươi phần trăm lương tốt nghiệp đại học sáu mươi tư đồng một tháng. Mức lương bắt buộc của người tập sự, ba năm.
Nhân tiện, nói thêm một chút cho vui. Khi còn ở Hà Nội, một hôm bỗng thấy có người từ Đại sứ quán Anh đến mời tôi tới nhà riêng ông đại sứ “dùng trà nếu không phiền”. Thì ra ông ấy biết tiếng Việt và đã đọc các tập thơ của tôi dịch từ tiếng Anh. Tôi dịch nhiều, nào Shakespeare, Byron, Robert Burns, vân vân, không biết ông đọc tập nào. Tôi nhận lời. Trang trọng lắm. Cô vợ, (và cả chồng) còn khá trẻ và xinh đẹp, người Ukraina, đon đả tiếp trà. Sau phần xã giao đến phần nói chuyện thân mật. Hóa ra cả hai ông bà học cùng trường với tôi ở Moskva, có điều cách nhau nhiều năm. Ông ấy học tiếng Nga, còn tôi và vợ ông thì tiếng Anh. Có vẻ ông rất ấn tượng về tiếng Anh của tôi, chuẩn “the King*s English”. Chuẩn cả ngữ pháp, lẫn ngữ điệu, cấu trúc và từ vựng. Tôi định khoe cả tiếng Nga nữa nhưng ông né tránh vì lúc ấy còn có một vài quan chức sứ quán không biết tiếng Nga. Tối về ông lên Facebook, viết một bài dài về cuộc gặp gỡ ấy và thậm chí còn gọi tôi là “thiên tài dịch thuật”. Kinh. Mấy hôm sau ông mời đến sứ quán dự tiệc và phát biểu. Có một bàn riêng dành cho ông và tấm biển ghi tên tôi. Cũng kinh. Ông còn tỏ ý muốn thu xếp tôi đi Anh để thăm mộ và tượng nhà thơ Scotland Robert Burns mà tôi yêu thích. Nhưng việc không thành, phần vì tôi nói tôi già yếu không đi một mình được, phần có thể vì có trục trặc gì đó bên Hội đồng Anh, là nơi chi tiền. Khi tôi mua vé đi Anh theo tour, đích thân ông và ông phó đại sứ gọi điện sang Ấn Độ làm visa cho tôi. Nước Anh không tự làm điều này mà thuê bên Ấn Độ làm hộ. Cũng năm ấy, thấy tôi đánh tiếng đi chơi Anh, cậu Ngô Quốc Phương, trưởng ban tiếng Việt đài BBC nói cậu ấy đã xin được sự cho phép của thủ trưởng người Anh đài thọ cho tôi một chuyến đi Anh, bao từ A đến Z. Tôi từ chối với lý do muốn đi theo tour tiện hơn. Các bác biết, dính đến tiền bạc người khác, nhất là người nước ngoài sẽ phiền phức với an ninh lắm. Mà tôi thì lúc ấy đang bị an ninh theo dõi ghê gớm. Đến Luân Đôn cậu ấy mời tôi đến trụ sở Đài, ăn ở luôn ở đấy, nhưng tôi cũng từ chối. Thì đi nhà hàng ăn với nhau một bữa. Cũng không được vì phải bám theo đoàn. Vậy là kéo nhau ra cà phê gần đó trò chuyện vui vẻ. Hoàn toàn bằng tiếng Anh. Cùng đi với cậu còn có vài ba người nữa. Lần sau tôi đi Anh thì cậu ấy đã sang Mỹ. Tôi đã đi nhiều nước nhưng thấy Anh là thích hơn cả.
Điều kiện vật chất của trường những năm ấy khó khăn lắm. Giảng đường và nhà ở giáo viên đều nhà tranh cách cót. Sân trường bằng đất, trời chưa mưa đã lầy lội kinh khủng. Lúc đầu tôi được phân ở cùng phòng với một thầy tên là thầy Dài, khoa tiếng Pháp, sau sang phòng khác, với thầy tiếng Anh, tên là Chút. Ăn thì xuống bếp ăn tập thể chung với sinh viên. Hoặc không thích thì tự nấu ở nhà. Đói lắm. Thời ấy bác nào có tuổi đều biết. Một lần thầy Chút nấu cơm, sắp chín, bỏ đi đâu đó, quay lại thì ai đã bê đi đâu mất. Còn tôi thì giặt chiếc quần simili còn mới ở vòi nước tập thể, loáng một cái đã không còn thấy đâu nữa. cả chậy, cả chiếc quần. Sướng.
Khó khăn vật chất cũng không sao vì tôi vốn quen chịu khổ và sống giản dị. nhưng tinh thần, chính tinh thần mới là vấn đề. Tôi thấy khó hiểu nhiều chuyện, rồi chuyển sang khó chịu. Rồi buồn, rồi nghĩ ngợi lung tung.
Theo thông lệ, sinh viên mới tốt nghiệp về dạy được nghỉ sáu tháng để soạn giáo trình và làm quen với môi trường mới. Tôi thấy không cần nên xin đi dạy luôn. Ô-kê, khoa và trường đồng ý, nhưng tôi ngạc nhiên, đáng lẽ thay cho một lời khen hay một câu động viên nào đó, thì họ có miễn cưỡng, nghi kỵ, cứ như tôi muốn chơi trội. Mà tôi thì bản tính hồn nhiên, trong sáng nào có ý gí. Làng tôi có một cậu, cùng tuổi, sau khi giải ngũ thi đậu khoa tiếng Trung. Khoa tiếng Trung lúc ấy thiếu giáo viện tiếng Anh dạy ngôn ngữ thứ hai. Tôi xung phóng, suy nghĩ một cách trong sáng rằng cần thì dạy giúp, không yêu cầu phụ cấp dạy thêm giờ. Vậy mà lạ, khoa và trường không đồng ý. Thực sự không hiểu thế nào.
Một hôm, tôi dạy cho học trò lớp chủ nhiệm mấy bài dân ca tiếng Anh, trong đó có bài Yanki Doodle, không ngờ là nhạc hiệu của Đài tiếng nói Hoa Kỳ, Cậu lớp trưởng lẻn đi báo với Phòng tổ chức cán bộ, kiểu tôi tuyên truyền phản động này nọ. Vâng, cậu lớp trưởng học trò tôi đã làm thế. Và tôi không được phép dạy hát nữa, dù không có bất kỳ lệnh cấm nào, cả văn bản lẫn bằng miệng. Ừ thì tôi không biết và không nên làm thế, nhưng sao không ai trong lãnh đạo nhà trường cho tôi một lời khuyên nhủ hay thậm chí khiển trách để mà biết, rút kinh kinh nghiệm? Không, không ai nói gì cả. Chỉ im lặng và ghi sổ đen. Tôi bắt đầu ngờ vực những lời tốt đẹp về việc đảng luôn quan tâm, chỉ bảo, nâng đỡ thế hệ trẻ. Năm ấy tôi không được đi trông thi phổ thông ở tỉnh khác. Lòng tin của tôi vào đảng và chính quyền đã bắt đầu sứt mẻ. Vì thuộc diện “hạt giông đỏ”, tôi là đối tượng đảng từ năm 1968 đấy. Nhưng vì “có vấn đề”, người ta không kết nạp. Sau này thì tôi cương quyết tìm mọi cách trốn không vào đảng, không phải không khó khăn, thậm chí còn nguy hiểm.
Sang năm sau, năm 1976, thì có sự, sự lớn. Năm ấy cả nước tổ chức Tổng truyển@ cử toàn quốc. Trưởng khoa, một ông già cùng quê mà tôi rất nghi ngờ về trình độ chuyên môn. Ông dài dòng nói về ý nghĩa trọng đại của ngày hội bầu cử lẫn này, và rằng mọi người phải sáng suốt lựa chọn, vân vân. Xong, cô tổ trưởng công đoàn đứng lên phát biểu. Cô đọc to danh sách từng người được đề cử, rồi tuyên bố “bây giờ khoa ta nhất trí trước nên bầu người nào, để mai cứ thế mà bầu, cho tập trung phiếu...” Tôi nghe mà giật mình, suy nghĩ một lát rồi đứng dậy nói to: “Theo tôi làm thế là không được, là vi phạm luật bầu cử. Chúng ta đã đến tuổi trưởng thành và đủ tiêu chuẩn đi bầu theo Hiến pháp. Hơn nữa, đây là cuộc bầu cử tự do, ngày hội trọng đại như bác trưởng khoa nói. Vậy, mỗi người có quyền bầu hay không bầu cho ai, sao phải thống nhất trước để “tập trung phiếu” như cô nói?” Có tiếng nhốn nháo trong phòng họp. Ai đó khẽ nói “thì xưa nay vẫn thế mà”. Cũng cố người lườm nguýt tôi vẻ khó chịu. Tôi nói tiếp: “Về nguyên tắc, về nguyên tắc thôi nhé, tôi có thể không bầu cho đồng chí tổng bí thư Lê Duẩn…” Lúc ấy thì tất cả mọi con mắt đều hướng về tôi, ngạc nhiên và kinh hãi. Ông trưởng khoa đứng bật dậy: “Không được! Không được! Không bầu cho đồng chí Lê Duẩn là có tội, là phản động. Không được!” Không nhìn rõ nhưng tôi đoán lúc ấy ông bị kích thích tột độ, có thể sùi cả bọt mép. Một vài người lên tiếng phản đối, tuy không gay gắt bằng. Tôi cũng không vừa. Chờ mọi người lắng xuống, tôi nói tiếp: “Được, vậy thì tôi đề nghị ngay bây giờ lập biên bản cuộc họp này, ghi rõ chị tổ trưởng công đoàn và bác trưởng khoa nói như thế, và tôi đã nói thế, nói rằng vì là bầu cử tự do, tôi có thể không bầu cho đồng chí tổng bí thư Lê Duẩn. Vâng, đề nghị lập biên bản, ngay bây giờ, mọi người cùng ký. Mai tôi sẽ đưa lên Ủy ban bầu cử quốc gia. Tội đâu tôi chịu”. Tất cả đớ người, nhất là ông trưởng khoa. Không ai nhúc nhích. Chờ một lúc sau, tôi lại đứng dậy, hạ giọng nói: “Vậy là các ông bà không dám lập biên bản, không dám đưa tôi, một kẻ phản động và có tội, ra công lý để nhà nước xử cái tội tầy đình các ông bà vu cho tôi”.
Rồi tôi hạ giọng thêm nữa, buồn bã nói: “Các đồng chí là giáo viên đại học, tức thuộc tầng lớp có học nhất, thông minh nhất mà hóa ra ngu dốt và hèn. Xin nhắc lại - hèn, rất hèn”.
Cuộc họp kết thúc trong im lặng. Ra đến cửa, cậu Thúy, sau này làm đại sứ một nước nào đấy bên Trung Mỹ, kéo tôi sang một bên rồi nói: “Anh nói đúng, nhưng xưa nay vẫn thế. Cả nước ta luôn thế. Tại anh học ở nước ngoài lâu nên không biết”. Lúc ấy cả khoa chỉ mình tôi học nước ngoài về. Tối hôm sau, tôi xuống nhà ông Võ Thúc Đồng và kể hết mọi chuyện, cả việc hỏi có nên hay không lên Ủy ban Bầu cử Trung ương để nói về vụ này. Ông im lặng hồi lâu, đặt nhẹ tay lên vai tôi và khẽ nói: “Cậu hồn nhiên, trong trắng… và đáng yêu quá. Nhưng kiểu này thì khó sống đấy cháu ạ”.
Từ đấy tôi nổi tiếng khắp trường là “người tuyên bố không bầu cho tổng bí thư Lê Duẩn. Một tội tày đình. Vậy mà không có ai phê bình hay kỷ luật gì cả. Chỉ im lặng, và chắc chỉ ghi thêm một tội nữa vào ký lịch cá nhân “có vấn đề” của tôi. Tội lớn, rất lớn.
Mấy tháng sau trường lại không cho đi coi thi ở các tỉnh. Rồi không thấy bố trí lịch dạy. Một hình thức kỷ luật nghiêm khắc mà không có lý do, không ai dám nói lý do. Không sao. Vậy thì tôi cứ ở nhà không làm gì cả mà vẫn lĩnh lương đều đặn. Muốn cắt lương, đuổi việc phải có lý do. Mà trường hợp của tôi thì khó nói ra lý do.
Ở nhà mấy tháng chán, tôi xin đi nghỉ ở Khu điều dưỡng Ba vì. Khu này đẹp, có hồ, có núi, yên tĩnh và nhiều cây xanh. Đặc biệt là được chăm sóc ý tế nếu có bệnh và ăn theo chế độ tiểu táo, chế độ cao nhất thời ấy. Vì không có bệnh gì ngoài việc “thỉnh thoảng đau đầu”, suốt ngày tôi tha thẩn trên đồi và bắt đầu dịch tiểu thuyết thơ Epghênhi Ônhêgin của Puskin, dày cả mấy trăm trang. Ba tháng trôi qua nhanh chóng, thế mà đến ngày phải về, ông giám đốc trại lại năn nỉ tôi ở lại thêm ba tháng nữa. Hơi ngạc nhiên nhưng tôi liền đồng ý. Một ông bảo tôi ông ấy đã ở đây gần hai năm, dù chẳng bệnh tình gì. “Tại sao lâu thế”, tôi hỏi. “Vì trại cần hoàn thành kế hoạch trên giao về số thời gian và số người đến điều dưỡng. Ít người xin đến nên trại phải “vận động” người cũ ở lại”. Tôi suýt bật cười và thầm nghĩ “cộng sản vui thật, bao cấp sướng thật”. Thêm ba tháng nữa, tôi đã dịch gần xong Puskin và quyết định về trường, dù ông giám đốc trại nài nỉ ở thêm.
Tôi quyết định tìm chỗ làm mới, về dạy ở khoa văn Đại học tổng hợp là một lựa chọn. Một thầy giáo khoa này, cũng quen biết sơ sơ, sau này nói nhở với tôi: “Khoa muốn anh về lắm nhưng trường hợp của anh hơi khó. Chi bộ cho người đến trường anh tìm hiểu, về họp lên họp xuống, thảo luận mãi rồi quyết định không”. Không sao. tôi chẳng vội, cứ tiếp tục ngồi ở nhà dịch thơ và nhận lương đầy đủ. Sướng.
*

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét