Thứ Ba, 28 tháng 10, 2025

TS HÀ THANH VÂN GÓP LỜI

 


TS HÀ THANH VÂN GÓP LỜI 


NHÀ PHÊ BÌNH ĐỪNG BAO GIỜ BẮT NHÀ VĂN, NHÀ THƠ VIẾT THEO MONG MUỐN CỦA… NHÀ PHÊ BÌNH
(HAY LÀ CHUYỆN VỀ MỘT TỌA ĐÀM THƠ THÚ VỊ)

Hôm qua, ngày 21.10.2025, Hà Vân có tham dự tọa đàm “Thơ Nguyễn Tiến Thanh trong sự vận động của thơ Việt Nam đương đại”, do Hội Nhà văn Việt Nam và Viện Văn học tổ chức. Tọa đàm diễn ra tại trụ sở NXB Hội Nhà văn ở 65 Nguyễn Du, Hà Nội, một khán phòng sang trọng và rất nghệ thuật với nhiều gương mặt nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình tên tuổi tham dự. Trong số đó, kẻ vô danh tiểu tốt thấp cổ bé họng nhất chắc chính là Hà Vân.
Hà Vân tham dự với một bài viết dài khoảng 10.000 từ, mang tên là THƠ NGUYỄN TIẾN THANH: HÀNH TRÌNH VIỄN CA CỦA MỘT THẾ HỆ THƠ “THANH XUÂN TRƯỜNG HỌC”.
Hà Vân ngồi cạnh “tiên ông” kiêm nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên. Và nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên phát biểu ý kiến như sau: “Thơ Nguyễn Tiến Thanh vẫn ở trong lối thơ sinh viên Mễ Trì (thơ sinh viên văn Đại học Tổng hợp cũ) của mấy chục năm trước, rất cần “thoát lối Mễ Trì”.
Hà Vân được mời phát biểu sau nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên. Chủ tịch Hội Nhà văn Nguyễn Quang Thiều giới thiệu Hà Vân là người tự nhận mình là nhà phê bình cầm thú và rất lãng tử 😍. Dù thích khá nhiều tác phẩm của anh Nguyễn Quang Thiều (kể cả tranh), song Hà Vân vẫn phải lên tiếng đính chính ngay tại tọa đàm là Hà Vân không phải lãng tử mà là… du nữ! Còn nhà phê bình cầm thú là biệt danh đặt vui của một nhà văn ở nhà số 4 gọi Hà Vân, chứ Hà Vân không tự gọi mình là nhà phê bình cầm thú đâu nha! 😍
Rồi Hà Vân phát biểu tiếp là: Tôi lại đang buồn chán và mỗi khi buồn chán thì tôi muốn đi gây chuyện (nhìn xung quanh thấy có nhiều người biến sắc mặt) 😃. Nên bây giờ tôi muốn đi phản biện lại nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên bằng chính bài tham luận của tôi. Tôi cho rằng nhà phê bình không nên áp đặt nhà văn, nhà thơ viết theo mong muốn của nhà phê bình. Hãy cứ để cho nhà văn, nhà thơ sáng tác theo ý họ, còn khen chê là chuyện của nhà phê bình! Bài tham luận của tôi xác lập thơ Nguyễn Tiến Thanh thuộc hệ hình thơ “thanh xuân trường học” và lý giải vì sao hệ hình thơ này vẫn có công chúng trong thời đại của nhịp sống số. Quan điểm của tôi là nhà thơ Nguyễn Tiến Thanh không cần phải “thoát lối Mễ Trì”, mà hãy cứ viết như anh muốn viết!
Sau đó Hà Vân trình bày một đoạn trong bài tham luận. Trình bày xong thì nhà phê bình Hoàng Đăng Khoa phát biểu. Bạn Khoa trước khi đọc tham luận cũng đi… phản biện Hà Vân. Bạn Khoa nói rằng tuy Hà Vân cho rằng nhà phê bình không nên bắt nhà văn, nhà thơ viết theo ý muốn của nhà phê bình, nhưng Hà Vân có áp đặt Ngô Tú Ngân phải viết nọ kia với truyện ngắn “Trăm Ngàn”.
Vì tránh để loãng không khí trong một tọa đàm về thơ, nên Hà Vân không trả lời lại bạn Hoàng Đăng Khoa. Và cũng biết Khoa luôn dễ thương, hay đùa với Hà Vân và Khoa là một nhà phê bình rất đáng nể trọng với kiến văn sắc sảo. Nhưng mà Hà Vân cũng phải nói lại rằng: Hà Vân chê thẳng thừng và công khai truyện ngắn “Trăm Ngàn” là rất dở! 😃 Còn Ngô Tú Ngân viết như thế nào là chuyện của cô ấy, Hà Vân không quan tâm, cũng không áp đặt bắt cô ấy phải viết hay! Viết dở cũng là quyền của nhà văn, nhà thơ. Còn khen/chê/bình luận/đánh giá là quyền của nhà phê bình và các độc giả. Chỉ là qua sự khen/chê/bình luận/đánh giá ấy, người ta sẽ cảm nhận được về con người và trình độ của nhà phê bình và các độc giả.
Buổi tọa đàm thu hút khoảng 30 bài tham luận và có nhiều ý kiến hay về mặt chuyên môn! Hà Vân cho rằng khi thơ ca còn được quan tâm nhiều như vậy, (vì thời gian gần đây Hà Vân dự một vài cuộc ra mắt tập thơ cũng rất đông độc giả tham dự) thì thơ ca Việt không phải khủng hoảng như nhiều người hay kêu cứu, mà nó vẫn có đời sống riêng, với những công chúng riêng, nặng lòng với thơ ca.
Trân trọng cảm ơn Hội Nhà văn Việt Nam, Viện Văn học, NXB Hội Nhà văn đã tổ chức tọa đàm giàu tính... lãng mạn, sáng tạo và khoa học này. Hà Vân cũng rất vui vì trong dịp này được gặp nhiều gương mặt quen thuộc và dễ thương.
Còn dưới đây là trích đoạn bài tham luận của Hà Vân:
----------------------
Thơ Nguyễn Tiến Thanh như một sự nối dài của hệ hình thơ “thanh xuân trường học”
Hệ hình “tthanh xuân trường học” có thể xem là hiện tượng thi ca của một thời. Sau công cuộc Đổi mới năm 1986, đời sống tinh thần của người Việt được cởi trói, cảm xúc riêng tư cá nhân bắt đầu được khẳng định. Thơ Việt Nam cuối thập niên 1980 và đầu 1990 vì thế chứng kiến sự trỗi dậy của một hệ hình đặc biệt, tạm gọi là hệ hình “thanh xuân trường học”, một dòng thơ nói lên tâm thế của tuổi trẻ đô thị, tuổi học trò, tuổi sinh viên.
Những tên tuổi như Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Phan Hách, Trương Nam Hương, Đỗ Trung Quân, Trần Hòa Bình… là đại diện tiêu biểu cho thế hệ này. Thơ của họ tràn đầy cảm xúc, trong sáng, pha chút ngây thơ, nhưng cũng đầy khát vọng và lý tưởng. Những nhà thơ ấy cùng sáng tạo nên một không gian thi ca lãng mạn, hướng nội, nơi con người trẻ tuổi được cất cao tiếng nói về cảm xúc, kỷ niệm, tình yêu và sự trong trẻo của tâm hồn. Đó là loại hình thơ “học trò, sinh viên - thanh xuân - tuổi trẻ”, nhưng không hời hợt, mà phản chiếu tinh thần xã hội đang chuyển mình, từ chiến tranh sang hòa bình, từ tập thể sang cái tôi cá nhân.
Nguyễn Tiến Thanh sinh năm 1968, thuộc đúng độ tuổi của thế hệ “thanh xuân trường học”. Ông từng là sinh viên khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội cuối thập niên 1980, thời điểm phong trào thơ sinh viên lan rộng khắp giảng đường. Những bài thơ đầu tay của ông được sáng tác trong không khí ấy với sự chân thành, giàu cảm xúc, gần gũi đời sống học đường, phản ánh đúng tinh thần tự do cảm xúc sau thời kỳ Đổi mới. Tuy nhiên, khác với nhiều nhà thơ cùng hệ hình sáng tạo, Nguyễn Tiến Thanh không dừng lại ở tuổi thanh xuân, mà mang theo tinh thần ấy đi suốt hành trình sống. Khi bước qua tuổi 30, 40, 50, thơ ông vẫn giữ chất trữ tình ấy, nhưng được thăng hoa bằng chiều sâu của kinh nghiệm sống và sự từng trải.
Khi đặt thơ Nguyễn Tiến Thanh trong mối tương quan với các tác giả tiêu biểu của hệ hình “thanh xuân trường học” như Hoàng Nhuận Cầm, Đỗ Trung Quân, Trương Nam Hương, Trần Hòa Bình hay Nguyễn Phan Hách…, có thể nhận thấy giữa họ tồn tại một mạch cảm xúc chung nhưng cách biểu đạt và độ sâu lại khác nhau rõ rệt. Nếu như Hoàng Nhuận Cầm, Đỗ Trung Quân hay Trương Nam Hương… gắn bó với không gian học đường, ký túc xá, sân trường, những mùa thi và hoa phượng đỏ, nơi tuổi trẻ được thể hiện qua những kỷ niệm mộng mơ, hồn nhiên, đôi khi sôi nổi và bốc đồng thì Nguyễn Tiến Thanh lại mở rộng biên độ cảm xúc ấy ra khỏi khuôn viên trường lớp để bước vào đời sống trưởng thành. Ở ông, ký ức thanh xuân không còn dừng lại ở tình yêu đầu đời, mà trở thành chất liệu chiêm nghiệm, nơi con người nhìn lại quá khứ như một phần của hành trình sống.
Giọng thơ của Nguyễn Tiến Thanh vì thế điềm tĩnh hơn, tiết chế hơn, mang sắc thái trữ tình, triết lý thay vì thuần túy lãng mạn. Nếu thơ Hoàng Nhuận Cầm hay Đỗ Trung Quân, Trương Nam Hương là những bài ca tuổi trẻ rộn ràng và tươi sáng, thì thơ Nguyễn Tiến Thanh lại là tiếng vọng của thanh xuân đã qua, vẫn ấm áp nhưng thấm đẫm suy tư. Ngoài những bài thơ làm từ thời tuổi trẻ, thì với những bài thơ sau này, ngôn ngữ của ông vẫn giữ vẻ giản dị đặc trưng của hệ hình này, song chứa nhiều tầng nghĩa và biểu tượng hơn. Nếu các nhà thơ đi trước ngợi ca vẻ đẹp của tuổi trẻ đang sống, thì ông lại khắc họa vẻ đẹp của tuổi trẻ trong hồi tưởng, nơi cảm xúc đã được gạn lọc qua kinh nghiệm, nỗi buồn và cả tri thức của người từng trải. Chính sự chuyển hóa ấy đã khiến thơ Nguyễn Tiến Thanh trở thành một nhịp nối độc đáo giữa thơ của tuổi thanh xuân trong sáng của ba mươi năm về trước và thơ của ngày nay.
Nếu như Hoàng Nhuận Cầm là “nhà thơ của những năm tháng mộng mơ học trò”, thì Nguyễn Tiến Thanh là “nhà thơ của ký ức trưởng thành”, là người mang theo ánh sáng của tuổi trẻ đi vào những ngày đã chín.
“Người về chém gió trên “phây”
Thì ta tóc xoã ngang mây cuối đèo
Tháng năm trôi, lá bay vèo
Post lên mực tím ngập chiều phố xưa...
Người về nắng tắt, mưa thưa
Những comment cắt qua mùa không tên
Nhớ nhiều thêm, để mà quên
Tuổi hoa niên héo trên thềm heo may...
Người về úa tóc, run tay
Thì ta áo trắng cũng phai bụi đời
Thiên thu lạc lối chân trời
Ngàn năm khất thực những lời trăm năm?
(Facebook 1 – Loạn bút hành)
Ở đây, nỗi buồn không còn là buồn chia ly tuổi học trò, mà là nỗi buồn của người từng đi qua nhiều biến động, vẫn cố giữ lại chút trong trẻo của thời thanh xuân như một phần bản ngã. Vì thế, có thể nói Nguyễn Tiến Thanh là cầu nối giữa “thơ học trò” và “thơ trưởng thành”, giữa cảm xúc thuần khiết và suy tư triết lý. Như vậy, Nguyễn Tiến Thanh không rời khỏi hệ hình thơ “thanh xuân trường học”, nhưng ông chuyển hóa nó thành hệ hình “thanh xuân ký ức”, nơi tuổi trẻ trở thành một thứ di sản tinh thần. Ông đã biến cảm xúc của tuổi đôi mươi thành triết lý sống của tuổi năm mươi.
“Ta chẳng dại gì như Kinh Kha
Nhưng cũng điêu linh lúc nhớ nhà
Người xưa chống kiếm qua sông Dịch
Ta vung bút loạn bến Thương hà
Dẫu có một đi không trở lại
Thì ta, hề, uống mắt môi xưa
Ngàn lau đã trắng trời quan ải
Em ở đâu, hề, không tiễn đưa
Em ở đâu trời mưa đã thưa
Ly biệt vô ngôn thi nhất tự
Lê minh đoạn trường, tà dương du tử
Ta qua mùa nhớ ném thi cầm
Thì em cứ hát lời đơn bạc
Người đi chí lớn vẫn cơ hàn
Ta vốn chẳng thèm kiêng gió cát
Đầu trần đi giữa nắng nhân gian
Thì sông cứ chảy như ngày ấy
Có một người đi chẳng trở về
Gió bấc thổi, hề, sông Dịch lạnh tê
Tráng sĩ một đi, ta ngoảnh lại
Mỗi chiều
Tóc mộng
Mắt sơn khê”.
(Loạn bút hành)
Nếu ở buổi đầu, cùng thời với Hoàng Nhuận Cầm, Đỗ Trung Quân, Trương Nam Hương, thơ Nguyễn Tiến Thanh cũng vang lên giọng nói trong trẻo của tuổi học trò, nơi cảm xúc bộc phát, ngông cuồng nhưng trong sáng và chân thành như với “Loạn bút hành” ở trên, thì ở giai đoạn sau, ông đã đi xa hơn, giữ lại tinh thần của tuổi trẻ nhưng đặt nó trong không gian hồi tưởng và chiêm nghiệm. “Thanh xuân” trong thơ ông không còn là hiện tại đang sống, mà là một miền ký ức được nhìn bằng con mắt của người từng trải, vừa yêu thương, vừa ngậm ngùi, vừa biết ơn, đó là năng lượng giúp con người chống lại sự vô cảm của thời gian. Nếu thế hệ “thanh xuân trường học” từng khẳng định quyền được yêu và được mơ mộng, thì Nguyễn Tiến Thanh trong “thanh xuân ký ức” khẳng định quyền được hồi tưởng và gìn giữ sự trong trẻo giữa những biến thiên của đời sống.
Bây giờ mưa đã thưa
Mùa không tên bỏ lại
Những comment người vừa
Cắt qua miền tê tái…
Bây giờ nghe tóc úa
Nhớ rất nhiều như quên
Tuổi cũ vàng trong lá
Hoa niên rụng trên thềm.
(Nhớ rất nhiều như quên – Viễn ca)
Hệ hình thơ “thanh xuân trường học” tồn tại qua nhiều thập niên không chỉ vì hoài niệm, mà vì nó chạm đến nhu cầu tinh thần phổ quát khi nỗi nhớ tuổi trẻ là nỗi nhớ gắn liền với tâm hồn của mỗi con người. Thơ của hệ hình này có tính giàu cảm xúc và sự trong sáng ngôn ngữ, dễ tạo đồng cảm. Trong bối cảnh xã hội hiện đại hóa nhanh, sống nhanh, sống với công nghệ thì những giá trị giản dị, chân thành ấy càng trở nên quý hiếm. Nguyễn Tiến Thanh, bằng việc tiếp nối hệ hình trong thời đại truyền thông bùng nổ với nhịp sống số, đã chứng minh rằng thanh xuân không chỉ là một giai đoạn của đời người, mà là một tâm thế tồn tại cùng với thời gian.
Khi tập thơ “Chiều không tên như vết mực giữa đời” của Nguyễn Tiến Thanh ra mắt năm 2021, công chúng, đặc biệt là lớp độc giả trung niên, đã đón nhận nó bằng một niềm xúc động dịu dàng pha lẫn hoài niệm. Điều đáng nói là, trong bối cảnh thơ ca Việt Nam đương đại đang thiên về những tìm tòi hình thức với những giọng nói nữ quyền, đô thị, hậu hiện đại… thì sự trở lại của một giọng thơ mang tinh thần “thanh xuân trường học” tưởng như đã lỗi thời, lại gây được hiệu ứng quan tâm rộng rãi. Vậy vì sao một hệ hình thơ từng gắn với tuổi trẻ ở những thập niên 1980 - 1990 vốn đã qua hơn ba thập kỷ vẫn khiến người đọc hôm nay rung động?
Trước hết, lý do nằm ở tính chu kỳ của cảm xúc văn hóa. Trong thời đại truyền thông số, con người càng bị cuốn vào nhịp sống nhanh, lại càng khao khát tìm về những gì trong trẻo, nguyên sơ. Thơ “thanh xuân trường học” như “Chiều không tên như vết mực giữa đời” khơi dậy trong họ cảm giác được sống chậm, được trở về với những năm tháng học trò, khi mọi xúc cảm còn tinh khôi và thuần túy. Ở cấp độ xã hội học văn học, đây là hiện tượng hồi quy ký ức tập thể khi ký ức thanh xuân trở thành một vùng an trú cho những người đã đi qua nửa đời, khi cuộc sống hiện tại chất chứa quá nhiều biến động.
Thứ hai, thơ Nguyễn Tiến Thanh không tái hiện tuổi trẻ như một kỷ niệm hoài cổ, mà như một năng lượng tinh thần còn đang sống. Ông viết bằng giọng điệu trữ tình triết lý, khiến thanh xuân không chỉ là thời gian đã qua, mà là một tâm thế của người còn biết rung động, biết yêu, biết nhớ. Chính vì thế, độc giả đọc thơ ông không có cảm giác đi ngược thời gian, mà thấy mình đang được sống lại một phần tinh thần thanh xuân ngay trong hiện tại.
“Chiều không tên như vết mực giữa đời. Anh ngắt nắng xem hoàng hôn rớm máu” chính là lời đề từ tập thơ. Câu thơ này gợi nỗi buồn lặng lẽ, nhưng cũng chính là ẩn dụ cho hành trình ký ức loang ra trong tâm hồn con người, một hình ảnh vừa cổ điển, vừa hiện đại.
Thứ ba, văn hóa đọc đương đại đang chứng kiến sự quay trở lại của các giá trị “chân thật” và “cảm xúc” sau một giai đoạn bị lấn át bởi các sản phẩm kỹ thuật số nhanh và tức thời. Thơ Nguyễn Tiến Thanh với sự tiết chế, giản dị, trung thực trong cảm xúc đáp ứng được nhu cầu đó. Người đọc tìm đến thơ ông không phải để khám phá cái mới lạ, mà để tìm lại mình trong sự tĩnh lặng, yên ả của ngôn từ.
Và cuối cùng, thái độ đón nhận tích cực với tập thơ “Chiều không tên như vết mực giữa đời” còn thể hiện một chuyển động thú vị trong “gu đọc” của công chúng đương đại khi họ không đọc thơ theo thời gian sáng tác, mà theo độ chạm cảm xúc. Một bài thơ viết thời sinh viên nhưng được in ở tuổi trung niên mang trong nó hai tầng ký ức vừa trẻ, vừa chín, tạo nên hiệu ứng cộng hưởng đặc biệt khi người trẻ đọc thấy mộng mơ, người lớn tuổi đọc thấy thổn thức nhớ lại
Từ đó, có thể kết luận rằng hệ hình thơ “thanh xuân trường học” chưa bao giờ biến mất, nó chỉ ẩn mình và chờ được đánh thức bởi những giọng thơ biết cách làm cho thanh xuân trở thành ký ức sống, chứ không chỉ là dĩ vãng. Nguyễn Tiến Thanh, với “Chiều không tên như vết mực giữa đời”, đã chứng minh rằng một hệ hình thơ tưởng chừng cũ kỹ vẫn có thể tỏa sáng, nếu trong đó chứa đựng sự chân thành và niềm tin vào cảm xúc con người, điều mà thơ ca, dù ở thời đại nào, cũng không thể thiếu.
Vậy trong thời đại ngày nay, thơ kiểu “thanh xuân trường học” còn thu hút độc giả hay không? Câu trả lời là: Có, nhưng với hình thức mới và đối tượng khác. Vì thế hệ độc giả sinh ra sau 1986 vẫn tìm thấy trong thơ ấy ký ức về một tuổi trẻ chân thật, không bị mạng xã hội chi phối. Những câu thơ của Hoàng Nhuận Cầm, Đỗ Trung Quân, Trần Hòa Bình… vẫn được phổ nhạc, truyền miệng trên nền tảng số; thơ Nguyễn Tiến Thanh vẫn được chia sẻ như một “status trữ tình” của thế hệ trung niên. Nhưng hình thức tiếp nhận đã thay đổi: thơ không chỉ được đọc trên giấy hay trên sân trường, trong lớp học mà xuất hiện trên Facebook, TikTok, podcast, hay ở các cuộc giao lưu, nơi ký ức và hiện tại giao nhau. Như ở trên đã khẳng định, có lẽ thơ “thanh xuân trường học” ngày nay không còn chỉ dành cho tuổi học trò, mà trở thành một vùng hoài niệm tập thể, giúp con người cân bằng giữa nhịp sống hiện đại, xô bồ và nhu cầu cảm xúc nguyên lành, trong trẻo.
Nguyễn Tiến Thanh là một trong số ít nhà thơ đã nối dài tinh thần “thanh xuân trường học” bằng sự chín muồi của nhân sinh, khiến thơ ông trở thành chiếc cầu nối giữa hai thế hệ, đó là thế hệ mộng mơ sau 1986 và thế hệ trung niên đang đi tìm lại chính mình. Nếu Hoàng Nhuận Cầm, Trương Nam Hương, Đỗ Trung Quân, Trần Hòa Bình… là những tiếng nói của thanh xuân đang diễn ra, thì Nguyễn Tiến Thanh là tiếng vọng của thanh xuân đã lắng xuống. Và chừng nào con người còn cần một nơi để nhớ, để lặng, để giữ lại điều trong trẻo giữa thế giới ồn ào, chừng đó, thơ kiểu “thanh xuân trường học” vẫn còn chỗ đứng trong tâm hồn người đọc.
vnp_hoi_hoa_xuan_ecopark_2019_1
 
 In bài viết
Phản hồi

Người gửi / điện t

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét