Thứ Bảy, 7 tháng 9, 2013

BA ĐIỀU CẦN LÀM RÕ TRONG BÀI THƠ “THỤY BẤT TRƯỚC” CỦA HỒ CHÍ MINH


                                                                             Vũ Nho

Tham luận trong kỉ yếu " Tọa đàm khoa học kỉ niệm 70 năm tác phẩm Nhật kí trong tù"

BA ĐIỀU CẦN LÀM RÕ TRONG BÀI THƠ “THỤY BẤT TRƯỚC” CỦA HỒ CHÍ MINH

                                                PGS.TS. Vũ Nho

Bài thơ nguyên văn chữ Hán của  Hồ Chí Minh ở “Nhật kí trong tù” được phiên âm như sau:
         
                                        Thụy bất trước
                   Nhất canh…nhị canh… hựu tam canh,
                   Triển chuyển bồi hồi thụy bất thành;
                   Tứ ngũ canh thì tài hợp nhãn,
                   Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh.

Bản dịch thơ của Nam Trân:
                                      Không ngủ được
                   Một canh… hai canh… lại ba canh,
                   Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành;
                   Canh bốn canh năm vừa chợp mắt,
                   Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh.

1. Trong bài viết đã công bố của mình (1), chúng tôi  chỉ ra rằng hợp nhãn ( khép mắt, nhắm mắt) mà dịch thành “chợp mắt” là không ổn. “Chợp mắt” trong tiếng Việt có nghĩa là “nhắm mắt ngủ trong  khoảng thời gian rất ngắn”. Trong bài thơ lại nói đến những hai canh là canh bốn và canh năm. Vậy Bác  chợp ngủ trong khoảng thời gian bao lâu? Hay là chợp mắt trong cả hai canh? Mà ngủ cả trong canh bốncanh năm thì sao còn gọi là chợp mắt được nữa? Nhan đề của bài thơ là Ngủ không được, vì vậy Bác khồng hề ngủ, dù là chợp mắt. Bác nhắm mắt, thức mà “mơ” thấy sao vàng. Bác thức suốt năm canh, trằn trọc trọc băn khoăn suốt năm canh. Và khi nhắm mắt lại là khi bằng cái nhìn tâm linh “tinh thần như vào trong cảnh mộng” ( Đào Duy Anh – Hán Việt từ điển – in lần thứ ba – Trường Thi xuất bản 26, Võ tánh- SAIGON, trang 569) Người nhìn thấy sao vàng.
         
2. Một điều cũng đáng lưu ý ở trong câu thơ thứ nhất:
                        Nhất canh…nhị canh… hựu tam canh
Ta biết số từ trong tiếng Việt có hai loại chỉ số lượng và chỉ thứ tự. Khả năng có thể dịch số từ chỉ số lượng như là các số đếm, một canh, hai canh lại ba canh như trong bản dịch của tác giả Nam Trân đã quen thuộc. Nhưng lại còn một cách hiểu khác là Nhất, nhị, tam được hiểu như là số thứ tự. Canh( thứ) nhất, canh thứ hai, lại canh thứ ba. Canh một… canh hai… lại canh ba.  Điều này sẽ thống nhất với cách hiểu ở câu thơ thứ ba: Tứ ngũ canh khi dịch thành Canh bốn, canh năm. Vì vậy, nếu dịch thống nhất theo một cách hiểu  chính xác thì chúng ta sẽ có hai phương án:

a)    Một canh… hai canh… lại ba canh
Bốn canh, năm canh…

b)    Canh một… canh hai… lại canh ba
Canh bốn, canh năm…
Bản dịch thơ của Nam Trân kết hợp cả hai phương án a b  (dòng một của phương án a, dòng 2 của phương án b) nhưng chúng ta vẫn cảm thấy bình thường vì sự gần gũi của số đếm và số thứ tự. Khi chúng tôi công bố bài viết của mình trên Blog Yahoo, có bạn đọc đã thắc mắc và chúng tôi đã lí giải như trên. Nghĩa là cả hai cách dịch đều có thể chấp nhận, và bản dịch của Nam Trân kết hợp cả hai phương án. (2)
         
3. Nên hiểu thế nào về câu thứ tư:
Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh

Có nhiều người tinh thông chữ Hán đã giải thích rõ : ngũ tiêm tinh là sao năm cánh (nhọn). Như vậy sao năm cánh nhọn có thể là sao vàng, cũng có thể là sao đỏ, sao trắng…
          Vậy thì dịch sao vàng năm cánh có phải là dịch sai, cần đính chính hay không?
          Chúng tôi quan niệm như sau:
          - Thứ nhất, sao năm cánh và sao vàng năm cánh là khác nhau. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng vì là thơ, cho nên không thể nói đầy đủ các định ngữ như văn xuôi. Cụ thể là không thể viết “sao vàng năm cánh”.
          - Thứ hai, về lịch sử, cờ đỏ sao vàng năm cánh xuất hiện đầu tiên trong cuộc khởi nghĩa Nam Kì năm 1940. Bác không thể không biết sự kiện này. Tài liệu lịch sử cũng cho thấy là Bác đã dùng lá cờ đó tại Hội nghị Pác Bó . “Theo Võ Nguyên Giáp, hiệu kỳ này do Hồ Chí Minh mang về từ nước ngoài và được chính thức treo lần đầu tiên vào ngày "19/5/1941, lá cờ được treo giữa hang Pắc Bó, khai mạc Hội nghị thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội"[4] ( Theo Bách khoa toàn thư mở). Mãi đến tháng 8 năm 1942, Bác mới sang Trung Quốc và bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam. Cho nên sao vàng  năm cánh trên nền cờ đỏ là quen thuộc với Bác.
          - Thứ ba, bản dịch của Nam Trân được công bố năm 1960. Bác đã xem và không có ý kiến về điều này. Như vậy “sao năm cánh” dịch là “sao vàng năm cánh” tuy không sát nghĩa, nhưng phù hợp với sự thật lịch sử. Với nhà thơ Hồ Chí Minh vào thời điểm bị giam trong tù, sao năm cánh là sao vàng năm cánh trên lá cờ của Việt Minh. Sau này, chính Người đã đề nghị Quốc Hội chọn lá cờ  có ngôi sao thiêng liêng đó làm quốc kì của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa : “Trong cuộc họp Quốc hội khóa I quy định cụ thể về quốc kỳ ngày 2 tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Lá cờ đỏ sao vàng đã thấm máu đồng bào ta trong Nam Kỳ khởi nghĩa 1940. Chính lá cờ này đã cùng phái đoàn Chính phủ đi từ châu Á sang châu Âu, từ châu Âu về châu Á; cờ đã có mặt trên khắp đất nước Việt Nam. Vậy thì trừ 25 triệu đồng bào, còn không ai có quyền thay đổi quốc kỳ và quốc ca" ( Theo Bách khoa toàn thư mở)

Như vậy, bài thơ “ Không ngủ được” của Hồ Chí Minh là một bài thơ hay về tinh thần yêu nước của người chiến sĩ bị tù đầy, lúc nào cũng canh cánh với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bản dịch  bài thơ cần làm rõ mấy điều trên để người đọc thấy hết cái hay của nguyên tác.

                                                          Hà Nội, 3/9/2013
---------
1) Vũ Nho – Đi giữa miền thơ, nhà xuất bản Văn Học, 1999, trang 248.

2) Theo tác giả Lê Xuân Đức trong cuốn sách : “TINH HOA THƠ HỒ CHÍ MINH”, nhà xuất bản Văn Học, 2010,  trang 120, còn có hai bản dịch khác về bài thơ này.
Bản dịch của Xuân Thủy
Canh một…canh hai…lại canh ba
Trằn trọc băn khoăn, khó ngủ mà;
Canh bốn canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh quyện hồn ta.

Bản dịch của Quách Tấn
Bồi hồi trở lại trăn qua
Giấc nuôi canh một canh ba mới thành
Mắt vừa chợp lúc tàn canh
Sao vàng năm cánh quẩn quanh mộng hồn.

Chúng tôi thấy:
Cả hai dịch giả đều dịch “hợp nhãn” là chợp mắt, không đúng với nguyên tác là nhắm mắt.
Cả hai đều dịch “ ngũ tiêm tinh” ( sao năm cánh nhọn) thành sao vàng năm cánh.
Riêng nhà thơ Quách Tấn dịch canh ba mới thành  thoát li nguyên tác. Hồ Chí Minh viết “ Thụy bất thành” ( ngủ không được) kia mà. Vì vậy xin được sửa lại một từ của dịch giả: “ Giấc nuôi canh một canh ba chưa thành”.



5 nhận xét:

  1. Thấy Vũ Nho à

    Vấn đề thầy nêu ra quá khó, không biết ai “làm rõ” được đây.
    Tài năng dich thuật nước Nam ta cỡ Nam Trân, Quách Tấn, Huệ Chi …đã tham gia vào rồi…hihihi.
    Riêng ba chữ ngũ tiêm tinh 五 尖 星 mà dịch là sao vàng năm cánh là không ổn. Tạm chưa nói đến chữ vàng (người Tàu gọi hoàng 黃) mà các dịch giả thêm vào. Bu tui chỉ xét riếng mấy chữ: Ngũ 五 là năm, tiêm 尖 là nhọn, tinh 星 là ngôi sao (hành tinh: sao đi, vệ tinh: sao hộ vệ) Vậy “ngũ tiêm tinh” (五 尖 星) là năm ngôi sao nhọn chứ không phải năm cánh của một ngôi sao…

    Còm bài này của thầy phải có một bài dài vài trang A4 chớ không thể nói vài dòng thế này. Đôi lúc muốn liều viết một ẻn những run tay không dám gõ vào máy tính… huhuhu.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Kính bác Bu!
      Các vị túc nho đã tham gia, nhưng vẫn có chỗ "hở" để cho những người "lõm bõm" có thể lạm bàn. Chữ "hợp" trong HỢP NHÃN, khi thầy Mai Xuân Hải của tôi còn sống, tôi đã hỏi thầy và rất tin chắc : "hợp nhãn" là nhắm mắt, khép mắt. Không thể dịch là CHỢP MẮT. Ngũ tiêm tinh, bác bảo tiêm tinh là "sao nhọn" nhưng hình dạng thế nào thì gọi là nhọn? Người ta không thể có hình sao nhọn, sao tù. Sao vuông là nói cái hình bên ngoài ngôi sao là hình vuông ( của dân quân tự vệ). Năm ngôi sao nhọn là hình thù gì? Trong khi về cấu tạo ngữ pháp, "ngũ tiêm" là năm cánh( mũi) nhọn làm định ngữ cho TINH ( SAO). Không thể khác được Ngũ tiêm TINH chỉ có thể dịch thành SAO năm cánh ( nhọn).
      Tôi tin tưởng thế. Và các vị túc nho Nam Trân, Xuân Thủy, Quách Tấn cũng hiểu và dịch như thế. Chỉ có cái khác là các vị thêm "VÀNG" vào cho rõ cờ đỏ sao vàng của Việt Minh, sau là Quốc kì.
      Đôi dòng thưa lại với bác. Mong được chỉ giáo!

      Xóa
  2. Đi lang thang, tình cờ gặp Blog của bác Vũ Nho. BoBi tôi thấy rất thú vị khi được đọc nhiều bài của bác phân tích về thơ văn: Tác giả và tác phẩm. Nhân đây xin hỏi bác một chút về bài “Thùy bất trước” của Hồ Chủ Tịch:
    Ngũ tiêm tinh” mà Nam Trân dịch là “sao vàng năm cánh”, BoBi tôi vẫn cứ lấn cấn:
    - Một là, nếu ba từ đấy không phải là trong Nhật ký trong tù thì sẽ dịch ra sao.
    - Hai là có một ý kiến cho là trong Sấm Trạng Trình cũng có câu “Năm Giáp Tý vẻ khuê đã rạng / Lộ Ngũ Tinh trinh tượng thái hanh”. Như vậy, người xưa đã quan niệm Biểu tượng Ngũ Tinh là điềm may mắn, mưa thuận gió hòa, nhân tình yên ổn. Mặt khác theo cuốn "Kỷ Niệm 100 Năm Phong Trào Đông Du" thì cờ của Việt Nam Quang Phục Hội do cụ Phan Bội Châu lãnh đạo đã dùng hình ảnh "Ngũ Tinh Liên Châu" (4 chấm tròn trắng tại 4 góc hình chữ nhật và 1 chấm tròn ở giữa liên kết với nhau bằng 2 đường chéo), đó là hiện tượng đặc biệt cứ một chu kỳ 60 năm (một hội) thì cả 5 ngôi sao nổi tiếng Kim, Mộc, Thủy, Hỏa Thổ tuy quay theo qũy đạo khác nhau, tốc độ khác nhau, nhưng cùng đứng về một phía. Theo quan niệm Đông Phương, đó là biểu tượng kỳ diệu và may mắn.
    Như vậy “Ngũ Tinh” là một biểu tượng đã có từ xưa. Vấn đề còn lại là nhọn hay tù là không quan trọng. Nhưng nếu dịch là “sao vàng” thì không thỏa đáng. Thực ra trong “Nhật Ký Trong Tù” còn nhiều điều phải bàn. Vậy mong bác lý giải hộ.

    Trả lờiXóa
  3. Nếu thành thật với chính mình, nếu thật sự không bị những tư tưởng chính trị lôi kéo và áp lực. Rõ ràng Ngục Trung Nhật Ký có nhiều điểm dịch gượng ép , như bẻ cong 5 ngọi sao thàng sao 5 cánh. Nhưng mấy ai dám thành thật và nói công khai.

    Trả lờiXóa
  4. mà cở Trung Quốc cũng có 5 ngôi sao đấy, Và nguyên bản tiếng Hán, tờ bìa ghi thời gian 29 tháng 8 năm 1932 đến ngày 10 tháng 9 năm 1933, chứ không phải 1942 và 1943 cũng là điều đáng ngờ.

    Trả lờiXóa