THÚC SINH TỪ
BIỆT THUÝ KIỀU
PHỤNG HOÀNG
“Thúc
Sinh từ biệt Thuý Kiều” là một trong những trích đoạn tả cảnh đẹp nhất
không chỉ riêng trong Truyện Kiều, mà còn của cả văn chương
cổ điển Việt Nam nhiều thế kỷ.
Mối tình của Thúc
Sinh và Thuý Kiều ban đầu vốn là mối tình của một nhà buôn đã có vợ và một kỹ nữ
xinh đẹp chốn thanh lâu, bề ngoài không có gì khác với những mối tình trăng gió.
Nhưng rồi số phận, nỗi đa đoan, sự đa cảm và chiều sâu trong tâm hồn Kiều cùng
sự mê đắm của Thúc Sinh đã khiến mối tình đó, trong cái hiện thực khắc nghiệt và
khao khát ở thời đại Nguyễn Du và Truyện Kiều, có một giá trị khác biệt.
Nếu cảm nhận sâu hơn về thân thế Nguyễn Du - con của
vợ thứ ba quan Tể tướng Nguyễn Nghiễm, và người mẹ sinh ra ông vốn là một phụ nữ
nết na xinh đẹp xứ Kinh Bắc nổi tiếng hát hay, bà chết ở tuổi 39, khi Nguyễn Du
mới 11 tuổi; ta sẽ hiểu vì sao Nguyễn Du lại dành cho Kiều và mối tình éo le của
nàng một sự ưu ái sâu sắc đến như vậy. Và tình yêu, mối liên tài, sự quý trọng vô
bờ đối với người phụ nữ đã tạo nên vẻ đẹp kiều diễm và chất thơ đầy lãng mạn
trong các Thiên diễm tình của nhân vật
Kiều, mà mối tình với Thúc sinh là một.
*
Trích đoạn miêu
tả cảnh Thúc sinh từ biệt Thuý Kiều, khi Thúc sinh theo lời Kiều lên đường từ Lâm Tri, phải trở về Vô Tích
trần tình cùng vợ cả, một tiểu thư con quan họ Hoạn.
Bản chất đắm say
trong mối tình của họ đã khiến phong cảnh và tâm hồn nhân vật thấm đẫm một nỗi
buồn ly biệt:
“Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng
phong thu đã nhuốm màu quan san
Dặm
hồng bụi cuốn chinh an
Trông
người đã khuất mấy ngàn dâu xanh
Người
về chiếc bóng năm canh
Kẻ
đi muôn dặm một mình xa xôi
Vầng
trăng ai xẻ làm đôi
Nửa
in gối chiếc, nửa soi dặm trường”
Không một chút dấu
vết của những đau thương khổ nhục khi Kiều vừa thoát khỏi lầu xanh của mụ Tú Bà!
Trích đoạn biểu
hiện Kiều đã sống hết mình cho Thúc sinh, cho mối tình mây nước của nàng, cho ân
nhân, người đã chuộc nàng ra khỏi lầu xanh, người đã say mê nàng và lấy nàng làm
vợ. Trong mối tình đó, ta chỉ đọc thấy niềm rung động và vẻ đẹp của một trang tài
tử hào hoa với một giai nhân tuyệt sắc.
“Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng
phong thu đã nhuốm màu quan san”
Ta như hình dung
thấy Thúc sinh vừa lên ngựa, lưu luyến không nỡ dứt, còn nàng Kiều vừa phải buộc
buông áo của chàng. Cuộc chia tay diễn ra giữa một khung cảnh rừng phong thu đã
trở nên đỏ rực.
Bạn đọc hẳn có
thể liên tưởng tới bóng non vàng lộng lẫy trong một áng thơ Kiều:
“Long lanh đáy nước in trời
Thành
xây khói biếc, non phơi bóng vàng”
Nhưng dưới con mắt của đôi trai gái chia ly thì
rừng phong thu đã tắt đi cái ánh vàng huy
hoàng rực rỡ, bởi đã nhuốm một màu quan san tê tái. “Quan san” đấy chính là cửa ải, nơi bên kia con đường sẽ dẫn chàng
Thúc, người yêu của nàng Kiều tới Vô Tích, cũng là nơi về sau cả Kiều và Thúc
sinh sẽ gặp nhau trong khổ đau và nước mắt.
Có thể cảm nhận được
nỗi đau xót của hai người, trong phút chót của cuộc chia tay không thể nào trì
hoãn, vì Kiều đã tiễn Thúc sinh tới nơi cửa ải cuối cùng và nàng không thể đi
xa thêm được nữa. Nàng cứ nhìn mãi theo con đường đất đỏ mà bụi hồng cuốn theo
chân ngựa, và còn nhìn theo mãi ngay cả khi hình bóng Thúc sinh đã khuất qua
bao dặm đường trường:
“Dặm
hồng bụi cuốn chinh an
Trông
người đã khuất mấy ngàn dâu xanh
Có thể khi đọc câu
thơ trên, một bạn trẻ thời hiện đại sẽ ngạc nhiên: Có phải nơi “biên ải” ngày xưa người ta trồng dâu? và người ta trồng
dâu xanh liền mạch với rừng phong chăng?
Có lẽ rằng không
phải. Cho dù cảnh vật ở cuối Lâm Tri có rừng phong và ngàn dâu, thì khi vào thơ,
sẽ trở thành ước lệ. Cũng bởi tại chưa một nhà nghiên cứu, một nhà thực vật học
nào tìm đến Lâm Tri, suốt chặng đường nơi Thúc sinh từ biệt Thuý Kiều. Ta chỉ
hiểu được thiên tiểu thuyết này như là tưởng tượng; và có lẽ là chính Nguyễn Du
đã tưởng tượng, đã hoà màu vào bức tranh cổ điển, để dặm hồng biến thành dặm xanh nơi
đã xa ngút mắt. Và như vậy là để màu xanh
ngắt trở thành cõi vô cùng của biệt ly và xa cách, như hình tượng thơ được điệp
lên bởi sự đánh thức trong tâm khảm cái màu xanh trùng trùng trong khúc
ngâm não nề của người chinh
phụ:
“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy
xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn
dâu xanh ngắt một màu
Lòng
chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”
Nguyễn Du đã láy
lại hình ảnh ngàn dâu trong Chinh phụ ngâm khúc nổi tiếng đương thời,
để khắc đậm hơn vẻ sầu muộn, vốn là cái mỹ học sâu sắc căn bản của thơ cổ điển
phương Đông, khiến không gian và tâm trạng nhân vật được nhuốm một sắc diện u
buồn.
Trên cái nền tự
sự của cảnh chia ly ấy, hai câu tiếp mô tả tâm trạng hai người trong nỗi chia phôi:
“Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
Người về/ Kẻ đi - chừng đó diễn tả hai
phương của sự xa cách, và hình ảnh chiếc
bóng năm canh gợi ra một dung nhan vò võ âm thầm. Hình bóng cô đơn lặng lẽ
của nàng Kiều hiện lên giữa một không gian thao thức, còn phía bên kia thời
gian hiện lên hình ảnh lẻ loi của Thúc sinh trên con đường muôn dặm. Bằng vào cách
đó, Nguyễn Du đã diễn tả một cách thầm kín tấm thương vốn là bản chất rất sâu
sắc trong tâm hồn người đàn bà.
Hai câu trên nếu
dừng coi làm đoạn kết thì đoạn thơ chỉ có ý nghĩa của chia ly và xa cách, chưa
có cái sắc thái đặc sắc của tình yêu. Nhưng cũng như những nhà thơ lớn của nhân
loại - những thi sĩ đã viết nên thiên tình ca Tơritxtan và Izơ,…, và cũng như Sêcxpia,
như Tônxtôi, Nguyễn Du đã cho trăng về làm ngời sáng cả vòm trời của đôi trai gái
đang yêu và khiến nỗi nhớ nhung trở nên thao thiết và bất tử; đồng thời mang đến
cho người đọc một hình tượng thơ hay vào bậc nhất, kiều diễm vào bậc nhất trong
hình tượng những câu thơ Việt:
“Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa
in gối chiếc, nửa soi dặm trường”
Vầng trăng xẻ nửa là vầng trăng tượng lên
nỗi phân ly, bị cắt chia đau đớn, không trọn vẹn, không hạnh phúc; nhưng vầng trăng ấy lại sáng soi vằng vặc và đầy thương cảm, nửa
cho chiếc gối cô đơn khôn nguôi thao thức của nàng Kiều, nửa cho dặm đường xa xôi
vời vợi của Thúc sinh. Riêng ngôn ngữ câu 8 có nhịp điệu 4/4 (một sự đổi nhịp kỳ
diệu của câu bát trong lục bát), cộng thêm cấu trúc đối ứng như
một tương tư!
*
Thúc
Sinh từ biệt Thuý Kiều cả đoạn vẻn vẹn 8 câu, chỉ thông qua miêu tả, không
trực tiếp biểu hiện nỗi lòng nhân vật. Vậy mà đã làm hiện lên cả khung cảnh,
con người, cảnh vật, tâm trạng, cùng với những diễn biến của cuộc chia ly, từ lúc
bắt đầu, trông theo, trở về, rồi thao thức. Nhân vật chính – nhân vật - cảm xúc là Kiều.
Cứ hai câu lại hiện
lên một bức tranh, và Nguyễn Du đã vượt qua những thử thách, những nguyên tắc
“thi trung hữu hoạ” bằng thiên tài của mình, để màu sắc, ánh sáng, đường nét và
vẻ đẹp ước lệ, vẻ đẹp ngụ tình trong những bức tranh ấy vẫn làm xao xuyến, vẫn
làm thổn thức tim ta.
Bức thứ nhất
Nguyễn Du lấy màu vàng rực, màu đỏ rực – tức màu vàng đỏ u trầm lộng lẫy của rừng
phong làm chủ đạo, bởi sắc diện có pha màu quan tái, để diễn tả cái khung cảnh
huy hoàng tê tái của cuộc chia lý. Bức thứ hai Nguyễn Du lấy bụi hồng và màu
xanh ngắt (tức dặm xanh) (của ngàn dâu) làm chủ đạo, diễn tả con đường xa muôn
dặm và cái nhìn dõi theo đầy thương xót của Kiều; bức thứ ba lấy không gian giãn
cách, không gian khuya vắng làm chủ đạo, diễn tả nỗi âu lo xa cách; bức thứ tư
lấy ánh trăng - vầng trăng làm chủ đạo, diễn tả nỗi thao thức nhớ nhung. Thời
gian trong 4 bức tranh nhất quán, được xếp theo tuyến tính, phù hợp với các lớp lang “truyện kể” nôm và diễn biến tâm trạng nhân
vật; đường nét, bút pháp chấm phá, lãng mạn, nên thơ. Bộ tứ 4 bức tranh liên tiếp
(cũng như 4 lần Kiều đánh đàn, 4 lần Kiều nhớ nhà) phản ánh cấu trúc mỹ học cân
đối, hài hoà của thẩm mỹ cổ điển đương thời, và như ta thường thấy trong bộ bốn
bức tranh Tố nữ tuyệt đẹp qua nét vẽ của các hoạ sĩ dân gian.
*
Trong Truyện Kiều,
Nguyễn Du đã mô tả ba mối tình của Kiều: Kiều với Kim Trọng, Kiều với Thúc
sinh, Kiều với Từ Hải. Mối tình nào cũng sét đánh, cũng si mê ngay từ thuở ban đầu,
khi thì dưới trời xuân “Cỏ non xanh dợn
chân trời”, khi thì bởi nhan sắc và tiếng cầm ca, khi thì vì lời truyền tụng
về cặp mắt xanh cao ngạo của Kiều. Ở
nơi nào trong tuổi thanh xuân trong sáng và trong chuỗi trầm luân của cuộc đời
Kiều, tình yêu cũng cứu chuộc nàng!
Trước Nguyễn Du đã
có những truyện Nôm khuyết danh xuất hiện từ cuối thế kỷ thứ XVII đến giữa thế
kỷ thứ XVIII, ca ngợi tình yêu vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến, như “Phan Trần”,
“Lâm tuyền kỳ ngộ”, “Bạch Viên, Tôn Các”,”Bích
Câu kỳ ngộ” … Là một nhà thơ lớn, Nguyễn Du đã viết về tình yêu nam nữ trong
khuynh hướng tự do và nhân đạo của thời đại, như một đòi hỏi tự thân và như một
nỗi khát khao chính đáng của những đôi trai gái yêu đương. Thiên tài của ông đã
để lại trong Truyện Kiều những vần thơ
hay nhất về những say đắm và những nỗi nhớ nhung sầu muộn của một tình yêu không
trọn vẹn, lãng mạn và đầy bi kịch.
Đoạn trích “Thúc
Sinh từ biệt Thuý Kiều” càng trở nên vô giá vì nó đã ghi lại được một
trong những khoảnh khắc tốt đẹp nhất, quý giá nhất của cuộc đời Kiều: - khoảnh
khắc được sống trong tình yêu và những giới hạn mong manh của tự do./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét