GHI NHẬN VỀ TẬP PHÊ BÌNH, KHẢO CỨU
VĂN HÓA, VĂN NGHỆ HÀ NỘI
(Đọc Chảy mãi văn
hóa Hà thành của Nguyễn Hiếu. (NXB Hà Nội, 2017)
ĐƯỜNG VĂN
Đó là
tập phê bình, khảo cứu đầu tay của
nhà báo, nhà văn, nhà viết kịch Nguyễn Hiếu, được xuất bản sau hơn 40 năm liên
tục, anh chỉ chuyên tâm sáng tác, cho ra đời vài chục tác phẩm văn học với
nhiều thể loại khác nhau. Đọc tập sách tập hợp và chọn lọc các bài viết đã đăng
tải trên các báo, tạp chí hoặc tham luận tại các hội thảo khoa học chuyên ngành
sân khấu, văn học của HNSSKHN, VN, Hội NVHN, VN về nhiều lĩnh vực, đề tài và
chủ đề văn hóa, văn nghệ Việt Nam
và Thủ đô Hà Nội, dưới đây, tôi ghi nhận
một vài điểm nổi bật:
1. Ngọn bút phê bình văn hóa, văn nghệ trung thực, dũng cảm, đầy bản lĩnh
Ấy là
một trong những phẩm chất hàng đầu, cốt yếu khẳng định giá trị của nhà phê
bình, góp phần làm nên căn cốt đaọ đức sự viết của anh ta trước người đọc và
người sáng tác. Muốn có được những phẩm chất như thế, về tư tưởng, nhà phê bình
phải có lập trường kiên định, vững chắc, phải rất tự tin vào sự đọc, sự đánh
giá và thẩm định của mình dựa trên những kiến thức căn bản lý luận đáng tin
cậy, sự hiểu biết về tác giả cặn kẽ, toàn diện, đặc biệt là sự đọc tác phẩm một
cách kỹ lưỡng, khách quan, không chịu một áp lực lớn nhỏ từ bất cứ phía nào...
Lý thuyết thì thế, còn trong thực tiễn phê bình, khảo cứu văn hóa, văn nghệ
nước ta, trong nhiều thập kỷ gần đây, thấy những nhà phê bình chân chính vừa có
tâm vừa có tầm, vừa tinh tường, sâu sắc chuyên môn, nghiệp vụ... có thể đếm
trên đầu ngón tay! Những ngự sử của văn đàn thực sự chân chính hiện nay rất
hiếm hoi. Chính Nguyễn Hiếu, đã phải kêu lên trước hiện tượng đáng buồn này,
trong 1 bài báo đăng trên tờ Văn Nghệ
đầu những năm 90 thế kỷ trước: Đi tìm nhà
phê bình (rất tiếc, bài viết ấy không có mặt trong tập sách này, vì tác giả
chưa tìm được bản thảo!)
Tác giả Đường Văn
Một
trong những ưu điểm đáng ghi nhận đầu
tiên của cây bút phê bình khảo cứu Nguyễn Hiếu chính là thái độ thẳng thắn, dám nói thẳng, nói hết ý
kiến của mình mà không hề né tránh,
không ngán hệ lụy, dám phê phán, phân tích cái yếu, chỗ dở, khuyết, nhược điểm
của người khác, có khi cũng chính là mặt yếu cố hữu của bản thân anh (tự phê)
không kiêng kỵ, sợ bị lộ tẩy, tự dại dột vạch áo cho người xem lưng. Chẳng hạn,
hiện tượng văn mình... Hiện tượng nhà
văn rất lười đọc của người khác, của đồng nghiệp, chỉ thích đọc tác phẩm của
mình và những bài viết về mình! Nguyễn Hiếu nhiều lần tự thú với tôi về căn
bệnh nan y khó chữa này mà chính anh
cũng mắc một cách ngượng nghịu mà thích thú?! Không chỉ nêu ra những yếu kém,
chưa được của văn hóa, văn nghệ Hà Nội tồn tại trong nhiều năm nay, đồng thời
tác giả thường phân tích những nguyên nhân, nguyên cớ xa gần của những khuyết,
nhược điểm ấy một cách toàn diện, khá thuyết phục. Thậm chí, anh còn mạnh dạn
đưa ra một số giải pháp khắc phục trước mắt và lâu dài, với thái độ xây dựng
chân thành, nghiêm túc của một người trong cuộc. Anh đối thoại, tranh biện khá
triệt để với những nhà nghiên cứu phê bình chuyên nghiệp, có học hàm, học vị,
với tư thế bình đẳng, tự tin (chẳng hạn với TS. Nguyễn Văn Tùng trong bài Phê
bình sự phê bình có tính phê bình (Duy cái nhan đề, theo tôi, hơi bị cầu
kỳ, có thể gây sự khó hiểu không đáng có!) hoặc
bài Lý luận về tiểu thuyết đi quá chậm so với sáng tác).
Là một nhà phê bình tay ngang, Nguyễn Hiếu vẫn rất tự tin, xông
xáo vào bàn thảo về không ít những vấn đề lý luận chuyên môn từ chung đến
riêng, rộng đến hẹp. Ví dụ: Lý luận
về tiểu thuyết... , Thi pháp thơ hiện đại, Tính quân bình của thơ, Văn chương
hãy đúng là văn chương..., Thơ và sự lạm phát... Có những vấn đề Nguyễn Hiếu bàn luận khá rốt
ráo, quyết liệt như những lời nhắc nhở,
kêu gọi đồng nghiệp và bởi chính anh với tư cách là 1 tác giả chuyên nghiệp đã
luôn tự đấu tranh để tự vượt mình, hằng ngày, trong từng trang viết, trong từng
tác phẩm, bền bỉ, liên tục gần nửa thế kỷ qua: Đã là nhà văn thì phải viết,
Chúng ta là nhà văn, Nạn đạo văn nghệ đang xâm thực... Những bài viết ấy
hoàn toàn không phải là những lời kêu gọi suông, dành cho người khác, trừ mình
ra, mà ngược lại! Tính thuyết phục của văn phê bình Nguyễn Hiếu, có lẽ trước
hết là ở đó.
2. Một cá tính phê bình - khảo cứu mang đậm
chất báo chí và cảm hứng chủ quan của nhà nghệ sỹ sáng tác.
Nguyễn
Hiếu vốn xuất thân từ công việc làm báo (viết và nói) tại Ban Công nghiệp, Đài
tiếng nói Việt Nam, vừa làm báo vừa sáng tác văn xuôi, viết truyện, kịch, viết
cả thơ trữ tình (chính trị, thế sự và tâm tư, tùy hứng)... rồi mới thi thoảng
viết phê bình, khảo cứu, khi có hứng hoặc khi tâm trí bức xúc về một vấn đề văn
nghệ, văn hóa, xã hội nào đó. Bởi vậy, điều dễ hiểu là bút pháp lý luận phê bình của anh vẫn mang dấu ấn sâu nặng nghề
nghiệp chính của mình. Đặc điểm chuyên môn nghề nghiệp này vừa là ưu điểm vừa là nhược điểm trong các bài phê bình, khảo cứu của anh.
Ưu điểm là sự nhanh nhạy, sắc sảo, kịp
thời khi phát hiện và nắm bắt, phân giải, tổng hợp và đề xuất
cách giải quyết vấn đề; là lối văn nhanh,
tốc độ, với không ít dẫn chứng phong phú, có khi bằng những con số, con
người và sự việc cụ thể, thật khó phản bác. Bài viết của Nguyễn Hiếu thường
mang đậm tính thời sự, trao đổi, thậm chí
tranh luận. Ví dụ các bài: Ba khiếm
khuyết trong làng văn thời gian qua, Điều lo ngại từ bếp núc sân khấu hiện nay, Thơ và sự lạm phát...,
Có chăng một nền sân khấu hài Việt Nam hiện đại?... Bài Để cho văn hóa Hà thành chảy mãi, tuy
mang tính chất thay một Lời nói đầu
cho cả tập sách, nhưng vẫn như một bài báo dài, một báo cáo tổng kết nghiệm cẩn
và hệ thống về văn hóa Hà Nội trong nhiều năm qua.
Mặt
khác, là nhà văn chuyên sáng tác, là nghệ sỹ ngôn từ và hình tượng giàu kinh
nghiệm nên bút pháp phê bình – khảo cứu của Nguyễn Hiếu chịu ảnh hưởng và mang đậm tính nghệ sỹ, chủ quan, đầy cảm xúc,
nhiệt hứng, nhất là khi bàn về những thể loại, thuộc lĩnh vực sở trường của anh: văn xuôi tự sự, kịch nói,... Khi bàn luận về những loại hình nghệ
thuật ấy, anh thường có những tìm tòi, phát hiện, nhận xét, những lời phê bình, bình luận, phân tích sắc
sảo, tinh tế, thỏa đáng của một người
đã và đang làm được, nói được, người trong nghề và đang làm nghề hiệu quả nói, viết, trao đổi, tranh biện về nghề, bạn nghề, chuyện nghề...
Chẳng hạn các bài về tiểu thuyết, về bếp
núc sân khấu...
Tuy
nhiên, hạn chế của ngòi bút phê bình
– khảo cứu nặng tính báo chí và nhà văn
sáng tác này, theo tôi, là ở chỗ:
Tính
lý luận, bài bản, hệ thống chưa ca; lập luận, dẫn chứng để luận chứng cho luận
điểm nhiều khi chưa chặt chẽ, kín kẽ, toàn diện. Không ít đoạn viết còn hở sườn, nặng cảm tính, chưa được biện
thuyết đầy đủ bằng lý lẽ; không ít ý chưa được phân tích triệt để mà bị bỏ lửng lơ, để ngỏ một cách vô tình...
Nói tóm lại là tính logich của từng đoạn, thậm chí toàn bài chưa chặt, chưa vững chắc. Khảo cứu
của anh về một vài vấn đề có khi còn nông, chưa toàn diện và đến nơi đến
chốn. Lời văn, hình ảnh trong các bài
viết phê bình – khảo cứu của Nguyễn Hiếu, dù đã được biên tập khá kỹ, nhưng vẫn
còn một số đoạn, câu cấu trúc lỏng lẻo, tùy hứng, xô bồ, luộm thuộm, một số thuật ngữ, hình ảnh sử dụng chưa thật
chuẩn xác hoặc nghiêm túc. Giọng điệu hài
hước đôi chỗ chưa phù hợp đối với
loại hình này. Chẳng hạn: bài viết phê bình thơ Lê Huy Quang mang nhan đề rất
to tát, đầy tính lý luận: Thi pháp hiện
đại, nhưng thực chất nội dung lại nặng tính cảm nhận chủ quan, và sơ sài.
Đọc xong, người ta vẫn không hiểu thi pháp thơ hiện đại nói chung là gì? Thi pháp hiện đại trong tập thơ Phải khác, thì chỗ được và chưa được ở
đâu? Là gì? Bài viết mới dừng lại ở một bài điểm sách nghèo nàn và phiến diện.
Tính chất báo chí, trong văn phê bình lý
luận của nhà văn quen sáng tác này còn bộc lộ rõ trong phần
2: Chân dung những người quen mà lạ.
Những
người trong nghề và ngoài nghề mà tác giả chọn viết chân dung có thể rất nổi
tiếng hoặc thành danh ở các mức độ khác nhau; nhưng đều có tâm hồn nghệ sỹ, có tố chất
nghệ thuật thiên phú.
Phải
ghi nhận ngay những ưu điểm lồ lộ,
tạo nên đặc sắc và sự độc đáo của
những chân dung này, dưới ngòi bút họa sỹ bằng ngôn từ và tự họa của Nguyễn
Hiếu. Nhưng về bản chất, từ góc độ thể loại văn học, đó không phải là những chân dung văn học theo đúng nghĩa khoa học của thuật ngữ này mà là những bài
báo ngắn và vừa, những bút ký, hồi ký, tạp văn, tản văn cốt ghi
lại một vài ấn tượng, những kỷ niệm chọn lọc, hoặc những phỏng vấn và ghi nhận của
người viết với đối tượng, trong những hoàn cảnh, thời điểm khác nhau. Đó là
những câu chuyện nhỏ, nhưng ý nghĩa không nhỏ về những ông thầy dạy nghề nổi
tiếng mà Nguyễn Hiếu may mắn được làm chú học trò ngây thơ, chăm chỉ và từng đã
thâu nhận được không ít bài học vỡ lòng quý giá về nghề và nhân cách người làm
nghề viết, từ những bậc đại sư lừng lẫy: (Thế
Lữ, Học Phi, Nguyễn Công Hoan, Chế Lan Viên, Xuân Diệu...), những người anh
em, người bạn đồng nghiệp thân thiết (Hà
Ân, Chu Lai, Văn Sửu, Nguyễn Đình Chính,
Giang Phong, Trần Gia Thái,...)
2 bài cuối cùng: Đám văn nhân ở Quỳnh Mai trang và Tôi viết để hôm nay và ngày mai cùng biết thực chất là những hồi ký, chân dung tự họa. Nhà văn tự vẽ chân dung bản thân và những đồng nghiệp,
đồng hương (với nghĩa hẹp: cùng ở khu nhà tập thể một thời ấu thơ và bao cấp
chưa xa)... trong cảm hứng hồi cố
rưng rưng, cảm động.
Nét đặc sắc của những hồi ký - chân dung
này là sự đồng cảm, sẻ chia chân thực, tái hiện sộng động một vài nét tính cách của những đối tượng - bạn văn - đã được khắc họa và làm nổi bật
góc cạnh, gây ấn tượng đậm và sâu mặt này, mặt kia, qua những chi tiết hiện
thực và chân thực.
Trong
số đó, bài viết về người đồng nghiệp đàn anh Chu Lai và bài về Nguyễn Đình Chính và người cha - nhà văn
đa tài Nguyễn Đình Thi là 2 bài rất dí dỏm, hóm hỉnh, thấm đượm nghĩa tình.
Ở đây, Nguyễn Hiếu đã truyền được cái thần của các nhà văn này, khắc họa những mảnh tâm hồn tính
cách, sinh hoạt mà chưa khái quát hay
chứng minh, làm rõ qua 1 tác phẩm văn chương cụ thể nào của họ, từ tiểu
thuyết đến truyện ngắn hay phim, kịch... Tuy nhiên, vẫn còn một vài bài sơ
lược, thoáng qua, như: Văn Sử quê Văn Giang, Người chuyên viết kịch về Bác Hồ,
Giám đốc làm thơ...
Nói
chung, 14 chân dung người quen mà lạ
chưa đủ độ chín, độ sâu, độ nặng, độ bao quát và nhất là nghệ thuật điển hình hóa cao để tạo dựng những bức chân dung nghệ sỹ
đủ sức ám ảnh người đọc. Đó chưa phải là những công trình nghiên cứu con người từng
nhà văn nghệ sỹ qua sự nghiệp sáng tác văn học, sân khấu, qua cuộc đời của họ
một cách bề thế, công phu, sâu sắc. Giá như Nguyễn Hiếu bỏ thêm công sức, thời
gian, tâm huyết và nhiệt hứng nhiều hơn nữa cho thể loại văn học thú vị này thì
giá trị của phần Chân dung người quen mà
lạ, chắc chắn sẽ cao hơn!
Hơn
chục năm trước, có nhà phê bình nổi danh là cây
búa từng phê bình Nguyễn Hiếu là nhà
phê bình văng mạng! Tôi có đủ luận cứ khoa học và thực tiễn để chứng minh,
rằng đó là cách đánh giá phiến diện, vội vàng và chủ quan, thậm chí là ác ý đối
với bút pháp phê bình văn học của tác giả Con
ngố, Người đàn bà quỷ ám hay Linh hồn đông lạnh... Nhưng ở một chừng
mực và khía cạnh nào đó, phải chăng chính từ đặc điểm xuất phát và ảnh hưởng
của báo chí và lối văn sáng tác của một cá
tính nghệ sỹ mạnh như Nguyễn Hiếu đã vừa tạo nên sở trường đồng thời cũng
tạo ra sở đoản, làm cơ sở cho lời nhận xét khái quát trên?!
3. Phê bình sân khấu - một trong những điểm
mạnh của nhà viết kịch Nguyễn Hiếu.
12/33
bài (8 bài thuộc phần 1: Phê bình và suy
nghĩ; 4 bài ở phần 2: Chân dung...) đã không chỉ minh chứng một cách hùng hồn, về mặt số lượng, cho nhận xét khái quát
trên của chúng tôi, mà còn chứng tỏ,
rằng Nguyễn Hiếu là một trong những nhà biên kịch rất tâm huyết với nghề, một
cây bút luôn đau đáu với sự phát triển của nền
sân khấu Việt Nam đương đại.
Với tư
cách một nhà văn đã từng viết và được dựng, được chuyển thể hàng chục vở kịch
nói, truyện phim, chuyển thể chèo... có tiếng vang nhất định. Có kịch bản văn
học và vở diễn giành được Huy chương vàng hội diễn sân khấu toàn
quốc (Ví dụ: Chu Văn An – người thầy của muôn đời), Hàng rào mồng tơi gãy rập,
Linh hồn đông lạnh (Kịch tùy hứng)
và gần đây nhất là vở Thúy Kiều,
chuyển thể đầu tiên ở nước ta sang thể loại kịch
nói hiện đại từ tiểu thuyết thơ bất tử: Truyện
Kiều – Nguyễn Du...), Nguyễn Hiếu
đã viết các bài báo hoặc đọc tham luận tại các hội thảo sân khấu Việt về những
đề tài cấp thiết cũng như cơ bản của sân khấu Việt. Chẳng hạn: Nhân vật trung tâm của sân khấu đương đại.
Hoặc có khi là một cái nhìn tổng hợp bao quát: Mấy phác thảo sân khấu 2010. Có khi đề nghị một giải pháp không
mới, nhưng cơ bản và hữu hiệu đặng giúp giải thoát vấn nạn thiếu kịch bản hay: Nên đến với văn học, may ra... Nghĩa là
các nhà viết kịch nên và cần tìm đến các tác phẩm văn học tương thích. Các nhà
văn cũng nên thử bút viết kịch bản văn học bằng cách chuyển thể chính tác phẩm của mình như
Tô Hoài năm xưa,với Vợ chồng A Phủ;
Nguyễn Huy Tưởng với truyện phim Lũy Hoa, như Chu Lai gần đây hoặc như chính
Nguyễn Hiếu với Con tàu hoang, Mặt nạ để đời... Nguyễn Hiếu chạm đến 1 trong những vấn đề học
búa: Phê bình kịch bản sân khấu (cũng như điện ảnh)- một khoảng trống quá lớn!;
rồi Kịch một đêm hay là sự lạm dụng lịch sử. Anh đã hơn một lần, tại các
diễn đàn, hội thảo sân khấu trong những thời điểm khác nhau đã góp ý kiến bàn bạc, gợi mở về một loại
hình kịch độc đáo của sân khấu Việt từ truyền thống đến hiện đại: Có chăng một nền sân khấu hài Việt Nam hiện
đại? trong thực trạng rất thưa vắng các tác phẩm sân khấu hài dài hơi,
chuyên nghiệp. Rồi Nguyễn Hiếu còn xông vào cả bếp núc của sân khấu hiện nay để mà lo ngại và yêu cầu đổi mới, sáng tạo,.
Bởi từ đạo diễn đến diễn viên, thậm chí lãnh đạo các nhà hát, hình như chưa
thật mạnh dạn đổi mới tư duy theo hướng hiện đại. Họ chỉ quen dựng những vở
tròn trĩnh, êm ái cho an toàn, cho nhà hát và cho chính bản thân. Nhiều đạo
diễn các đoàn từ TƯ đến địa phương không dám dựng, né tránh hoặc để dành những
vở mạnh mẽ bứt phá, đổi mới, nhưng gai góc và nhạy cảm về tư tưởng hoặc nghệ
thuật... đến một dịp thích hợp mà chưa biết đến dịp nào!!!
Về
phương diện này, chính Nguyễn Hiếu cũng là một trong số ít tác giả kịch bản
phải hứng chịu thiệt thòi đáng tiếc, đáng buồn!
Bốn chân dung nghệ sỹ quen mà lạ: nhà
biên kịch Giang Phong, nhà viết kịch bản chèo Văn Sử, người đang giữ kỷ lục sân khấu Việt Nam Phạm Văn Quý, Người chuyên viết kịch Bác Hồ Lê Đăng Thành,
cùng những đoạn hòi ký sinh động về hai
đại sư sân khấu: Thế Lữ, Lộng Chương, tuy mới chỉ là vài nét phác vẽ đơn
giản, nhanh gọn, nhưng cũng đã phần nào chỉ ra được phần nào cái tâm,
cái tài, đặc biệt là cái thần của
từng nghệ sỹ trong đời và trong các tác phẩm, những thành công của họ trong sự
nghiệp viết kịch bản văn học. Mỗi người đều ánh lên cái duyên riêng của mình.
***
Trở
lên là những ghi nhận bước đầu của
chúng tôi, khi đọc tập sách Chảy mãi văn hóa Hà thành của Nguyễn Hiếu, cả
mặt mạnh cũng như chưa mạnh trong bút pháp phê bình, khảo cứu văn học – sân
khấu của anh. Hi vọng, trong những năm tới, Nguyễn Hiếu sẽ còn viết tiếp loại
hình văn học này, tiếp tục sưu tầm lại những bài phê bình đã viết mà chưa kịp có
mặt trong tập đầu tay, để cống hiến bạn đọc những tập phê bình khảo cứu văn
hóa, văn học, sân khấu sâu sắc hơn, mạnh mẽ hơn, chuyên nghiệp hơn, và dày dặn
hơn. Với phong cách ngòi bút Hiếu văn
cùng tính cách con người và bản lĩnh văn chương Nguyễn Hiếu, tôi tin rằng đó là niềm tin có cơ sở thực tiễn chắc
chắn chứ không phải là kỳ vọng không tưởng, hoặc chỉ là lời động viên, nói cho
vui... mà thôi!
Trèm – Thụy Phương, đầu thu Đinh Dậu,
16/9/2017. ĐV
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét