MỘT BÀI THƠ XÚC ĐỘNG VỀ ĐỀ TÀI THƯƠNG BINH LIỆT SĨ
NGƯỜI NGỒI TRƯỚC MỘ MÌNH
Nguyễn Đức Mậu
Sau bốn mươi năm báo tử.
Ông về
Thấy ảnh mình trên bàn
thờ
Thấy ảnh mình trên bia
mộ
Có phải ông một thời
trai trẻ
Phải ông người trong ảnh
ngày xưa?
Bốn mươi năm
Mẹ cha ông lúc xuôi
tay nhắm mắt
Mong nằm cạnh con mình
Mộ ông: chiếc tiểu
sành không hài cốt
Ông trở về trước mộ
cha, cúi mặt
Trước mộ mẹ khấn thầm
Hình hài vẹo xiêu
Tuổi chiều nắng tắt
Nấm mộ ông đắp bằng nước
mắt
Hương khói tỏ mờ mỗi đận
thanh minh
Trước bia đá cỏ xanh
Người phế binh dại
ngây khuôn mặt
Ông nhẩm nhớ những người
đã mất
Một con thuyền trong
đêm chiến tranh
Bom rơi đặc trời, máu
loang mặt nước
Bao người chết. Chết
không tìm thấy xác…
Bao người chết. Chỉ
mình ông sống sót
Hơn bốn mươi năm ốm
đau, lưu lạc
Người phế binh ngồi
trước mộ mình.
Lời bình của Vũ Nho
Có rất nhiều bài thơ ở nước ta viết về nỗi tiếc thương, tưởng nhớ sự hi sinh
của các liệt sĩ là chuyện tự nhiên. Bởi vì các cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mĩ, chiến
tranh ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc biết bao người chiến sĩ đã ngã xuống. Tuy vậy
viết trực tiếp về chuyện viếng mộ thì số lượng bài thơ lại không nhiều. Có thể kể trên đầu ngón tay : “Viếng bạn” của Hoàng
Lộc, “Mồ anh hoa nở” của Thanh Hải, “Nấm mộ và cây trầm”, “Người ngồi trước mộ
mình” của Nguyễn Đức Mậu.
Bài thơ “Người
ngồi trước mộ mình” không rõ thời điểm sáng tác. Nhưng chi tiết “sau bốn mươi năm
báo tử” cho chúng ta biết bài thơ được viết trong thời điểm gần đây. Chàng trai
trẻ ngày nào tuổi hai mươi ra đi. Sau bốn
mươi năm báo tử, bây giờ trở về quê hương đã trở thành người hơn sáu mươi,
thành “Ông” “hình hài vẹo xiêu, tuổi chiều
nắng tắt”. Người ngoài đời và người trong ảnh khác hẳn nhau. Đến nỗi chính
người trong cuộc cũng thấy ngờ ngợ, hoài nghi:
Có phải ông một thời trai trẻ
Phải ông người trong ảnh ngày xưa?
“Báo tử”. Tờ giấy chỉ thông tin được cho cha mẹ người chiến sĩ và người thân mấy dòng vắn tắt:
đồng chí hi sinh ngày… tháng… năm…, ở mặt trận …, trong trường
hợp Chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, được xác nhận là Liệt sĩ. Thi hài mai táng tại
nghĩa trang mặt trận.
Ông có “mộ” vì cha mẹ muốn nằm xuống
cạnh con trai mình. Mộ của ông chỉ đơn
giản là “chiếc tiểu sành không hài cốt”. Nấm mộ ấy, gợi nhớ những “mộ gió” của
các chiến binh trên biển triều Nguyễn mà
Trịnh Công Lộc đã viết. Thì ra, không phải ở đảo, không phải chỉ những chiến sĩ
trên tàu không số thời đánh Mĩ, mà khắp nới trên đất nước này, có biết bao nhiêu
ngôi mộ “ không hài cốt”. Và đau xót hơn, còn bao nhiêu hài cốt không có mộ. Hồi
tưởng của người sống sót về một thời điểm hi sinh của đồng đội:
Một con thuyền trong đêm chiến tranh
Bom rơi đặc trời, máu loang mặt nước
Bao người chết. Chết không tìm thấy
xác…
Cuộc chiến ác liệt biết chừng nào.
Mẹ cha người lính
- người phế binh đã cạn dòng nước mắt đắp mộ con. Họ đã vĩnh biệt cõi đời này
khi mà nấm mộ con trai vẫn chỉ là “chiếc tiểu sành không hài cốt”. Và bây giờ
người được “báo tử” trở về. Ông đã trở về
lạy mẹ, lạy cha và “khấn thầm”. Không biết lời khấn của người lính già là những gì. Chỉ biết người trở về sau lời khấn đó
“dại ngây khuôn mặt”. Ông đau nỗi đau
mẹ cha khi nhắm mắt? Ông đau nỗi đau đồng đội hi sinh? Ông đau nỗi đau một mình sống sót? Có lẽ là tất cả.
Bài thơ kết
thúc bằng một thông tin và hình ảnh người trở về như hóa đá trước mộ mình:
Hơn bốn mươi năm ốm đau, lưu lạc
Người phế binh ngồi trước mộ mình
Nếu để ý sẽ thấy có vẻ như có mâu thuẫn chút ít khi có hai
con số:
Sau bốn mươi năm báo tử. Bốn mươi năm. Con số tròn bốn mươi.
Hơn bốn mươi năm ốm đau lưu lạc. Con số lớn hơn bốn mươi.
Không, nhà thơ không nhầm lẫn. Việc báo tử bao giờ cũng chậm
hơn do hoàn cảnh chiến tranh. Phải có thì giờ xác minh, tìm kiếm. Phải có thông
tin chính xác… Và ngay cả thời gian thông tin từ Nam ra Bắc cũng không thể dễ dàng.
Người chiến sĩ
sống sót duy nhất trong đêm định mệnh ấy sau ốm đau, lưu lạc đã trở về. Cũng có
đồng đội anh trở về gặp bao nhiêu thủ tục
phức tạp để xác minh, để chứng nhận làm một “người còn sống” như người thường.
Nguyễn Đức Mậu
khi 22 tuổi đã viết bài thơ “Nấm mộ và cây trầm”, một bài thơ bi tráng ca ngợi
người đồng đội hy sinh. Khi nhiều tuổi hơn, tác giả quay lại đề tài này và cách
viết, không giống như xưa. Trước đây là
tình cảm gắn bó với người đồng đội hi sinh có tên cụ thể. Những cảm thán trực
tiếp khi đắp mộ cho người bạn. Bây giờ là sự ghi chép có vẻ như khách quan, kìm nén về một đồng đội
vô danh.
Bài thơ là một trong những bài thơ hay viết
về đề tài thương binh liệt sĩ, về sự hi sinh thầm lặng của bao người con ưu tú
của đất nước trong cuộc chiến tranh.
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
In trên Diễn Đàn Văn Nghệ Việt Nam, số tháng 7/2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét