TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP ÁNG
THIÊN CỔ HÙNG VĂN
PGS TS Vũ Nho
Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Cách mạng tháng Tám thắng
lợi ở Hà Nội. Ngày 28 tháng 8 năm đó, Bác từ chiến khu Việt Bắc về tới Thủ đô.
Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Người soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, trên quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người thay mặt
Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đọc bản Tuyên ngôn Độc
lập trước hàng chục vạn đồng bào.
Hồ Chí Minh
viết và đọc bản tuyên ngôn khi đế quốc thực dân đang chuẩn bị chiếm lại nước
ta. Dưới danh nghĩa quân Đồng minh vào
giải giáp vũ khí quân đội Nhật, quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc tiến vào phía
Bắc; quân đội Anh tiến vào phía Nam.
Thực dân Pháp theo chân quân đồng minh,
tuyên bố: Đông Dương là đất “bảo hộ” của người Pháp bị Nhật chiếm, nay Nhật đã
đầu hàng, vậy Đông Dương phải thuộc quyền của người Pháp.
Tuyên ngôn
Độc lập không chỉ là lời tuyên bố
với nhân dân Việt Nam, mà
còn tuyên bố với nhân dân thế giới, phe
Đồng minh và cả kẻ thù của dân tộc về quyền tự do độc lập của dân tộc Việt Nam.
Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện chính trị có giá trị lịch sử to lớn, đồng thời là áng
văn chính luận bất hủ. Càng ngày, chúng ta càng nhận thức sâu thêm
những giá trị lịch sử, nhân văn,
văn hóa, nghệ thuật văn chính luận… của
bản Tuyên ngôn.
Hồ Chí Minh đã mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập :
“Hỡi đồng bào
cả nước,
“Tất cả mọi
người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có
thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Lời bất hủ ấy
ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy rộng ra, câu ấy có ý
nghĩa là : tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói :
“ Người ta
sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình
đẳng về quyền lợi”.
Đó là những
lẽ phải không ai chối cãi được”.
Mở đầu bản tuyên ngôn, mặc dù trong hoàn cảnh phái
hoàn thành gấp ( 5 ngày trước khi công bố), mặc dù điều kiện để tra cứu tư liệu
không thuận lợi như hiện nay, nhưng Hồ Chí Minh đã dẫn hai bản tuyên ngôn độc
lập của Mĩ và tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp để làm cơ sở cho bản
Tuyên ngôn của Việt Nam. Đó là những bản Tuyên ngôn tiến bộ, được cả thế giới
thừa nhận.
Đáng chú ý là Bác đã “suy rộng ra” lời tuyên ngôn của nước Mĩ. Bởi vì tuyên ngôn đó nói
về con người. Còn tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, tác giả muốn đề cập đến “dân
tộc”. Đây là điểm sáng tạo, là đóng góp mới của Bác cho phong trào giải phóng
dân tộc. Mặt khác, Bác trích tuyên ngôn của Mĩ là để tranh thủ sự ủng hộ của Mĩ
và phe Đồng minh. Bác trích tuyên ngôn của Pháp, để sau đó buộc tội Pháp đã lợi
dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp nước ta, làm trái với tinh thần
tiến bộ của chính bản tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp.
Như GS Nguyễn Đăng Mạnh phân tích : “Bác
Hồ đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta bằng chính những lời lẽ
của tổ tiên người Mĩ, người Pháp đã ghi trong hai bản Tuyên ngôn độc lập,
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền từng làm vẻ vang cho truyền thống tư
tưởng và văn hoá của những dân tộc ấy. Cách nói, cách viết như thế là vừa khéo
léo vừa kiên quyết. Khéo léo, vì tỏ ra rất tôn trọng những danh ngôn bất hủ của
người Pháp, người Mĩ. Kiên quyết vì nhắc nhở họ đừng phản bội tổ tiên mình,
đừng có làm vấy bùn lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước
Pháp, nước Mĩ, nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam” ( Tuyên ngôn độc lập
– Hồ Chí Minh, trong sách Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 12,
Nxb GD, 2003.)
Tiếp theo là lời buộc tội thực dân Pháp. Nội dung này
vẻn vẹn có hơn một trang in. Nhưng chứa đựng tất cả tinh thần toàn bộ cuốn sách “ Bản án chế độ thực dân
Pháp” Người viết trước đây.
Người tố cáo thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình
đẳng, bác ái gây bao nhiêu tội ác đối với nhân dân ta. Cụ thể là : về chính
trị, chúng tuyệt đối không cho dân ta một chút tự do dân chủ nào; chúng thi
hành luật pháp dã man; lập ra nhà tù nhiều hơn trường học; thực hiện chính sách
ngu dân; về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy; chúng đặt ra hàng
trăm thứ thuế vô lí, chúng kìm hãm các nhà tư sản dân tộc, bóc lột công nhân vô
cùng tàn nhẫn. Chúng còn hèn nhát bán nước ta cho Nhật, khủng bố Việt Minh
chống Nhật.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định thái độ nhân đạo và
khoan hồng của chúng ta đối với thực dân Pháp. Để chống
âm mưu thực dân Pháp quay lại nước ta, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh sự thật. Sự thật là từ năm 1940, nước
ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt
Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp. Sự thật đó là căn cứ vững chắc để
Người thay mặt chính phủ lâm thời, đại biểu cho toàn dân Việt Nam tuyên bố:
-“ thoát li hẳn
quan hệ thực dân với Pháp; xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về
nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc
quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”.
- “ Toàn dân
Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp”.
Người đã kêu
gọi Đồng minh công nhận quyền Độc lập của Việt Nam. Để tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, Người đã
dẫn ra hai hội nghị quan trọng ở Tê-hê-răng ( I ran) năm 1943 và Cựu-Kim- Sơn (
Xan Phran-xi-xco – Mĩ) năm 1945. Ở đó,
các nước đã công nhận “ những nguyên tắc
dân tộc bình đẳng”, cho nên “quyết không thể không công nhận quyền độc
lập của nhân dân Việt Nam”.
Lời văn đoạn
trích sau thật rắn rỏi, tự hào với bốn lần nhắc đến từ “dân tộc”, hai lần nhắc
từ “gan góc” trong trường kì thời gian gần một thế kỉ; hơi văn mạnh mẽ, đăng
đối như lời văn biền ngẫu trong các bài cáo,
bài hịch thời xưa:
“ Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của
Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống
phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”
Cuối cùng là lời tuyên bố độc lập và quyết tâm của cả
dân tộc:
“ Vì những lẽ
trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập,
và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự
do, độc lập ấy”.
Tuyên ngôn Độc lập là một áng văn chính luận mẫu mực. Hồ Chí Minh đã thuyết phục người
đọc, người nghe bằng sự chặt chẽ trong lập luận, sự đanh thép của lí lẽ, sự
đúng đắn, chính xác của luận cứ.
Hồ Chí Minh đã trích dẫn hai bản tuyên ngôn nổi tiếng
để làm căn cứ cho bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam. Người đã lấy các dẫn chứng về
chính trị, kinh tế, về các sự kiện lịch sử để tố cáo và buộc tội thực dân Pháp
đối với nhân dân ta và đối với phe Đồng minh. Người đã 20 lần nhắc đến chữ quyền
(Theo Chế Lan Viên – Trời thu xanh ngắt sáng tuyên ngôn) để tuyên ngôn về
quyền của dân tộc Việt Nam.
Không chỉ dùng điệp từ, Bác còn dùng
điệp kiểu câu “ mười bốn câu, câu nào cũng có chữ chúng mở đầu nặng như
búa tạ” (Chế Lan Viên, bài đã dẫn). Giáo sư Nguyễn Đặng Mạnh đánh giá:
“Tài nghệ ở đây là dàn dựng được một
lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chứng không ai chối
cãi được và đằng sau những lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn”
(Nguyễn Đăng Mạnh- bài đã dẫn).
Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn, một áng văn nghị luận bất
hủ : tuyên bố xóa bỏ chế độ thực phong kiến
tồn tại hàng nghìn năm, chấm dứt hơn 80 năm cai trị của thực dân Pháp ở
nước ta và mở ra kỉ nguyên tự do, độc lập của dân tộc.
Bác đã viết tuyên ngôn không phải chỉ cho dân ta, mà
còn cho nhân dân thế giới, cho phe Đồng minh và cả với kẻ thù của dân tộc là
thực dân Pháp. Vì vậy lời văn rất uyển chuyển, khi trang trọng, khi đanh thép, lúc
mềm mỏng xúc động; khi dõng dạc, hùng hồn…
Để đánh bại những lí lẽ kẻ cướp của thực dân Pháp hòng
nấp sau quân Đồng minh quay trở lại xâm lược nước ta, Bác đã vạch trần tội ác
của chúng trong 80 năm thống trị, sự hèn nhát của chúng hai lần bán nước ta cho
Nhật. Bác cũng chỉ rõ Đông Dương không còn là thuộc địa của Pháp, nhân dân ta đã
giành chính quyền từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Không có lí lẽ nào
thuyết phục hơn lí lẽ của sự thật. Bởi vậy Bác đã luôn láy đi láy lại hai chữ
“sự thật”: sự thật là…, sự thật
là…; Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do
và độc lập, và sự thật đã thành một
nước tự do, độc lập.
Một nhà nghiên cứu nước
ngoài đã đánh giá:
“Điều tôi thấy đáng chú ý nhất là tính
sắc sảo của bài văn, kết cấu chặt chẽ, không giả tạo. Gần như không từ nào có
thể được coi là thừa. Ví dụ điển hình nhất cho tính súc tích là câu: “Pháp
chạy, Nhật hàng, vua Bảo đại thoái vị”. Nhiều sự kiện chính trị đương
thời, chất chứa nhiều ý nghĩa chính trị, được gói gọn trong chín từ. Thực ra
ông Hồ có thể giảm câu đó xuống còn tám từ, nhưng lại chọn cách cho Bảo Đại có
được danh tước bình dân bằng cách dùng từ vua, mặc dù không
phải tước hiệu chính thức là Hoàng đế. Lối nói cô đọng này ngay lập
tức gợi lại những tác phẩm kinh điển Trung Hoa” (David G. Marr, “Hồ Chí Minh’s
Independence Declaration”, Essays into Vietnamese Pasts, K.
W. Taylor & John K. Whitmore chủ biên (New York: Cornell University
Southeast Asia Program, 1995), trang 221-231.
Biên dịch: Duy Đoàn | Hiệu đính: Nguyễn Tiến Văn)
Chính vì những
lẽ trên mà Tuyên ngôn Độc lập được coi như một áng “thiên cổ hùng văn”
của thời đại mới, tiếp nối khí phách và khát vọng độc lập của dân tộc thể hiện
trong bài thơ Nam quốc sơn hà và bài Bình Ngô đại cáo trước đây.
Hà Nội 18/8/2015
Đăng báo Người Hà Nội, số kỉ niệm CM tháng Tám và Quốc khánh 2/9 năm 201. Có bổ sung đánh giá của David G.Marr.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét